HOME
1
2
3
4
5
6
7
Cầu cho những ai đã mất con.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các bậc cha mẹ đang đau buồn trước cái chết của con mình tìm được sự nâng đỡ của cộng đoàn và cảm nghiệm sự bình an và an ủi trong tâm hồn từ Chúa Thánh Thần.
For cho tất cả các bậc cha mẹ đang đau buồn trước cái chết của con mình tìm được sự nâng đỡ của cộng đoàn và cảm nghiệm sự bình an và an ủi trong tâm hồn từ Chúa Thánh Thần those who have lost a child.
Let us pray that all parents who mourn the loss of a son or daughter find support in their community, and may receive peace of heart from the Spirit of Consolation.

HIỆPTHÔNG

Vatican News -

ĐTC Phanxicô: Bảo vệ sự sống là bảo vệ con người chứ không phải là bảo vệ nguyên tắc 

Trong thư gửi các tham dự viên cuộc gặp gỡ “Thiện ích chung: Lý thuyết và Thực hành” do Hàn lâm viện Tòa Thánh về Sự sống tổ chức, Đức Thánh Cha mời gọi vượt qua các lợi ích riêng tư để thực hiện tình huynh đệ cách thực tế. Ngài cũng lưu ý rằng bảo vệ sự sống là bảo vệ con người chứ không phải là bảo vệ các nguyên tắc.

Đức Thánh Cha nói trong sứ điệp rằng công ích trước hết là “một thực hành”, được tạo thành từ “sự đón tiếp huynh đệ” và “cuộc tìm kiếm chung” về sự thật và công lý. Và điều “rất quan trọng” là phải nhắc lại nền tảng này của học thuyết xã hội của Giáo hội trong một thế giới, thế giới hiện tại, “nổi bật bởi nhiều xung đột và tương phản” do không thể “nâng tầm nhìn của chúng ta ra ngoài những lợi ích cụ thể”. Ngài lưu ý rằng cuộc gặp gỡ này đặc biệt quan trọng ít nhất vì hai lý do.

 

Cuộc tranh luận về đạo đức sinh học trong bối cảnh xã hội và văn hóa

Lý do đầu tiên, theo Đức Thánh Cha, “nếu chúng ta thực sự muốn bảo vệ sự sống con người trong mọi bối cảnh và tình huống, chúng ta không thể bỏ qua việc đặt các chủ đề về sự sống, ngay cả những chủ đề cổ điển nhất vào trong các cuộc tranh luận về đạo đức sinh học, trong bối cảnh xã hội và văn hóa mà những hiện tượng này xảy ra”.

Ngài cảnh báo: “Việc bảo vệ sự sống chỉ giới hạn ở một số khía cạnh hoặc khoảnh khắc nhất định và không xem xét toàn diện mọi chiều kích hiện sinh, xã hội và văn hóa có nguy cơ trở nên không hiệu quả và có thể rơi vào cám dỗ của một cách tiếp cận mang tính ý thức hệ, trong đó các nguyên tắc trừu tượng được bảo vệ nhiều hơn là con người thực sự”.

Do đó, theo Đức Thánh Cha, việc theo đuổi lợi ích chung và công lý “là những khía cạnh trung tâm và thiết yếu của bất kỳ biện pháp bảo vệ nào đối với mọi sự sống của con người”, đặc biệt là “những sinh mạng mong manh và không có khả năng tự vệ nhất liên quan đến toàn bộ hệ sinh thái mà chúng ta đang sống”.

 

Cộng tác cho tương lai của nhân loại

Thứ hai, Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự hiện diện của những phụ nữ có trách nhiệm và hoàn cảnh khác nhau tại hội nghị và nói: “Chúng ta, trong xã hội cũng như trong Giáo hội, cần lắng nghe tiếng nói của phụ nữ”, giúp có những kiến thức khác nhau để hợp tác trong việc phát triển một sự suy tư “rộng rãi và khôn ngoan” về tương lai của nhân loại. Khi tất cả các nền văn hóa trên thế giới có thể đóng góp và bày tỏ nhu cầu cũng như nguồn lực, thì chúng ta sẽ có thể “suy nghĩ và tạo ra một thế giới rộng mở”, như chúng ta đọc trong thông điệp Fratelli tutti.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha hy vọng sự phát triển của “các lý thuyết kinh tế vững chắc” đảm nhận và phát triển chủ đề về công ích, để nó có thể trở thành một “nguyên tắc truyền cảm hứng hiệu quả cho các lựa chọn chính trị” chứ không chỉ là một điều được gợi lên bằng lời nói, trong khi lơ là trong hành động.

 

Vatican News

 

Vatican News -

ĐTC Phanxico mời gọi các gia đình tái khám phá vẻ đẹp của kinh Mân Côi 

Đức Thánh Cha gửi sứ điệp đến Đức Tổng Giám Mục Tommaso Caputo của Pompeii ở Ý, nhân dịp Giáo hội địa phương cử hành 150 năm bức ảnh Đức Mẹ Mân Côi đến Đền thánh Pompeii. Ngài mời gọi các tín hữu tái khám phá khả năng loan báo Tin Mừng của kinh Mân Côi trong Giáo hội.

Đức Thánh Cha bày tỏ sự hiệp nhất thiêng liêng của ngài với tất cả những ai sẽ cử hành sự kiện ý nghĩa này, và nói sẽ dừng lại để cầu nguyện và suy tư tại Đền thánh Đức Mẹ Pompeii, nhằm tìm sự an ủi và hy vọng nơi khuôn mặt dịu dàng của Mẹ Thiên Quốc.

Ngài nhắc lại lịch sử của bức ảnh, hoạ lại cảnh Đức Mẹ ngồi trên ngai toà với Chúa Giêsu trong tay đang trao chuỗi Mân Côi cho Thánh Catherine thành Siena và Thánh Đa Minh.

Bức ảnh đã được Bartolo Longo đưa đến đó vào ngày 13/11/1875, nhằm truyền bá lòng sùng kính kinh Mân Côi, sau khi, một ngày kia nghe tận sâu thẳm tâm hồn một tiếng nói “Nếu con tìm kiếm ơn cứu độ, hãy truyền bá kinh Mân Côi”.

Đức Thánh Cha nói rằng cử hành 150 năm bức ảnh là “một sự quan phòng” vì trùng với Năm Thánh sắp tới, tập trung vào Chúa Giêsu niềm hy vọng của chúng ta, và với kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicea, một công đồng nhấn mạnh đặc biệt đến mầu nhiệm Thiên Chúa-con người của Chúa Giêsu trong ánh sáng của Chúa Ba Ngôi.

Ngài viết: “Là điều tuyệt vời khi tái khám phá kinh Mân Côi theo viễn cảnh này, để thấu hiểu các mầu nhiệm cuộc đời Đấng Cứu Thế, chiêm ngắm bằng đôi mắt Đức Maria. Kinh Mân Côi, một công cụ đơn giản mà mọi người đều có thể thực hành, có thể hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo mới mà ngày nay Giáo hội đang được kêu gọi thực hiện”.

Đức Thánh Cha tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tái khám phá vẻ đẹp của kinh Mân Côi trong các gia đình, vì lời cầu nguyện này giúp xây dựng hoà bình. Hướng đặc biệt đến giới trẻ, ngài nhắc nhở rằng lời cầu nguyện này không phải là một cử chỉ lặp đi lặp lại và đơn điệu, nhưng là một hành động yêu thương không bao giờ mệt mỏi khi được tuôn trào. Hơn nữa, đối với những người bệnh và đau khổ, kinh Mân Côi còn là nguồn an ủi. Lời kinh là mối dây ngọt ngào nối kết chúng ta với Chúa, và mối dây tình yêu trở thành vòng tay đón nhận những người bé nhỏ và bị thiệt thòi như Bartolo Longo đã thấy.

Sau cùng, Đức Thánh Cha ban phép lành cho tất cả những ai tham gia vào các sự kiện cử hành sự kiện 150 năm bức ảnh Mẹ Mân Côi đến Pompeii.

 

Vatican News

 

Ý Cầu Nguyện Của ĐTC Phanxico - Tháng 11/2024 -

The Pope’s Monthly Intention (Nov, 2024) 

Cầu cho những ai đã mất con:

Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các bậc cha mẹ đang đau buồn trước cái chết của con mình tìm được sự nâng đỡ của cộng đoàn và cảm nghiệm sự bình an và an ủi trong tâm hồn từ Chúa Thánh Thần. 

For those who have lost a child:

Let us pray that all parents who mourn the loss of a son or daughter find support in their community, and may receive peace of heart from the Spirit of Consolation.

 

Chúng ta có thể nói gì với những bậc cha mẹ đã mất con? Làm sao chúng ta có thể an ủi họ?

Chẳng có lời nào có thể.

Bạn thấy đấy, khi một trong hai vợ hay chồng mất đi, họ trở thành góa vợ hoặc góa chồng. Một đứa trẻ mất cha mẹ là trẻ mồ côi. Có một từ để diễn tả điều đó. Nhưng khi cha mẹ mất con, không có từ nào để diễn tả. Nỗi đau quá lớn, đến nỗi không có từ nào để diễn tả.

Sống lâu hơn con mình là điều không tự nhiên. Nỗi đau do mất mát này vô cùng khắc nghiệt.

Những lời động viên đôi khi nhạt nhẽo hoặc uỷ mị, chúng chẳng giúp ích gì. Dĩ nhiên, với ý hướng tốt lành nhất, những lời ấy có thể giúp giảm đi việc làm khoét sâu nỗi đau.

Để ủi an những bậc cha mẹ đã mất con, chúng ta cần lắng nghe họ, gần gũi họ bằng tình yêu, san sẻ nỗi đau mà họ đang cảm nhận một cách có trách nhiệm, noi gương Chúa Giêsu Kitô cách mà Người an ủi những ai đau khổ.

Và những bậc cha mẹ vốn được nâng đỡ bởi đức tin của họ chắc hẳn có thể tìm thấy sự an ủi từ những gia đình khác, vốn đã được hồi sinh niềm hy vọng sau khi trải qua một thảm kịch khủng khiếp tương tự.

Chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả các bậc cha mẹ đang đau buồn vì mất đi một người con của mình sẽ tìm thấy sự nâng đỡ từ cộng đồng của họ và đón nhận sự bình an trong tâm hồn từ Thần Khí An ủi.

 

Vatican News

 

Vatican News -

ĐTC Phanxico: Mỗi trẻ sơ sinh là lời loan báo về sự ra đời ở Bêlem

Ngày 30/10, tại Vatican, Đức Thánh Cha tiếp nhóm chương trình mục vụ của Hội đồng Giám mục châu Mỹ Latinh (CELAM), đồng hành với những người bị mất con, đặc biệt nguyên nhân do sảy thai. Ngài nói: “Cám ơn anh chị em vì sự phục vụ cho những người có nỗi đau không thể diễn tả được. Sự dữ không có tiếng nói cuối cùng”.

Ngỏ lời với nhóm đồng hành với những người bị mất con, đang hành hương đến Roma nhân dịp kỷ niệm 25 năm thiết lập, Đức Thánh Cha nhận xét rằng sự xuất hiện của mỗi trẻ sơ sinh thường đồng nghĩa với một niềm vui lan toả cách huyền nhiệm và đổi mới niềm hy vọng. Chúng ta cảm nhận dù không giải thích được rằng mỗi trẻ em là một lời loan báo về sự ra đời ở Bêlem. 

Ngài nhấn mạnh, chính Thiên Chúa, trong phương pháp sư phạm Tin Mừng của Người, theo thánh Matthêu, đã muốn chúng ta tham gia vào nỗi đau, đối ngược với niềm vui này: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rên rỉ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa” (Mt 2, 18).

Đức Thánh Cha giải thích: “Đoạn Tin Mừng này, theo một tác giả cổ được thánh Tôma trích dẫn, nói về tiếng rên rỉ đầu tiên liên quan đến trẻ em, các thánh anh hài, sau cái chết nỗi đau không còn nữa. Trong khi tiếng khóc cay đắng được hiểu là tiếng than thở của những bà mẹ luôn được gợi lại bằng ký ức”.

Ngài nói thêm: “Đoạn văn của thánh Matthêu tiếp tục với cuộc trốn sang Ai Cập, gần như muốn nói rằng sự dữ lớn lao như thế làm chúng ta xa cách Chúa Giêsu, ngăn cản Người bước vào ngôi nhà chúng ta. Tuy nhiên điều này không được đưa đến việc mất hy vọng. Sự dữ không có tiếng nói sau cùng. Như thiên thần trong giấc mơ của thánh Giuse, Thiên Chúa loan báo cho chúng ta rằng sau sa mạc này Chúa sẽ lấy lại quyền sở hữu nhà của Người”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh, đối với nhiều người, nhóm mục vụ đồng hành với những người mất con như là thiên thần đưa tin cho thánh Giuse. Và ngài khích lệ nhóm tin tường vào đôi tay thánh Giuse để những anh chị em của chúng ta trong sầu khổ có thể tìm thấy Chúa Giêsu.

 

Vatican News

 

Tháng11: Cầu Cho Các Linh Hồn -

Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa Của Lễ Cầu Cho Các Đẳng Linh Hồn

I. Nguồn gốc:

Việc cầu nguyện cho những người đã qua đời có nguồn gốc từ Cựu Ước: “Ông Giuđa quyên được khoảng 2000 quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức, thì đây quả là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,43-46).

Giáo hội từ những thế kỷ đầu cũng đã cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Thánh Augustinô (354-430) đã nói: “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”. Sau đó, Thánh Odilo (962-1048), Viện phụ Đan viện Cluny (đan viện này thời đó nằm trong phần đất của đế quốc Germany) đã có sáng kiến tổ chức lễ Cầu hồn vào ngày 2-11 và trước hết cử hành trong Đan viện Cluny của ngài vào năm 998 (có sách nói 1030). Về sau lễ Cầu hồn đã được truyền sang nước Pháp; và tới giữa thế kỷ X, Đức Giáo hoàng Gioan XIV đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma.

Đức Giáo hoàng Bênêđictô XV cho phép mọi linh mục được dâng 3 thánh lễ trong ngày này:

* Một cho các linh hồn mồ côi
* Một theo ý chỉ của Đức Giáo Hoàng
* Một theo ý chỉ của chính linh mục

Nếu trùng vào ngày Chúa Nhật, ngày lễ sẽ được dời lại đến ngày 3-11.

 

II. Các đẳng linh hồn và luyện ngục:

Các đẳng linh hồn là những người đã qua đời trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng hiện nay còn bị giam giữ tạm thời trong luyện ngục vì những tội nhẹ và vì chưa đền hết hình phạt của những tội đã được tha. Họ phải chịu sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng. Họ chính là đối tượng để các tín hữu cầu nguyện cho, đặc biệt là đối tượng của các thánh lễ cầu cho họ (x. GLHTCG số 1030).

Giáo Hội gọi luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày Giáo lý của đức tin về luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia và Trentô.

Dựa vào Thánh Kinh (1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện: “Đối với một số lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước trước ngày phán xét, theo như những gì Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn đời sau” (x. Mt 12,32). Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” (Thánh Grêgôriô Cả, Dial. 4,39) (GLHTCG số 1031).

 

III. Lễ của người sống:

Lâu nay, chúng ta thường quan niệm lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời là lễ của người chết và chỉ dành cho người chết mà thôi. Thế nhưng, đó không chỉ là lễ của người chết, chỉ tưởng nhớ những người đã qua đời, mà còn là lễ của người sống, những người đang bước vào ánh sáng của Chúa. Vì khi chúng ta dâng những việc lành phúc đức cầu nguyện cho những người đã khuất cũng là dịp để mỗi người chúng ta.

1. Tuyên xưng niềm tin của mình:

* Tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời: Nếu không tin vào sự sống mai sau thì chẳng ai cầu nguyện cho các linh hồn làm gì và cũng chẳng có lễ cầu hồn. Nếu không tin thì hoá ra mọi lời cầu nguyện và nghĩa cử ta làm cho người chết đều trở nên vô nghĩa.

* Tuyên xưng niềm tin vào mầu nhiệm các thánh thông công: Thuật ngữ “các thánh thông công” có 2 nghĩa: “hiệp thông trong các thực tại thánh (santa)” và “hiệp thông giữa những người thánh (santi)”. Đức Kitô đã nối kết chúng ta bằng mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Qua đó, chúng ta được trở thành những chi thể trong cùng một duy nhất, mà Chúa Kitô là Đầu. “Tất cả chúng ta là một trong Đức Kitô” (Gl 3,28b). Thập giá và sự Phục sinh của Chúa Kitô đã nối kết người còn sống và người đã chết một cách nhiệm mầu. Giáo Hội lữ hành nơi trần thế và Giáo Hội đang thanh luyện nơi luyện ngục, cũng như Giáo Hội vinh thắng trên thiên quốc có thể chuyển thông các công phúc cho nhau.

* Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót: Có thể nói luyện ngục là nơi mà lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện rõ nét nhất. Thiên Chúa đã ban cho con người đặc ân được cộng tác vào công nghiệp của Đức Kitô để cứu độ mình và cứu độ anh chị em mình, dẫu mình tội lỗi bất xứng.

 

2. Trực tiếp bày tỏ lòng mình:

* Lòng hiếu thảo: Người Kitô hữu chúng ta không phải là người bất hiếu vong ân như một thời bị hiểu lầm. Trái lại, chúng ta có một tháng để tỏ lòng hiếu thảo đối với những người thân thương đã qua đời. Không những thế, chúng ta còn có rất nhiều ngày khác nữa để tưởng nhớ đến họ: các ngày lễ giỗ, ngày cầu hồn, ngày Mồng hai Tết…

* Lòng biết ơn: Biết ơn các ngài vì nhờ có các ngài mà ta được hiện hữu trên đời, được thừa hưởng gia tài cao quý là niềm tin vào Thiên Chúa. Biết ơn các ngài vì nhờ các ngài mà chúng ta có được giáo xứ thân yêu này. Và lòng biết ơn đó cũng là lẽ thường của đạo lý: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

* Lòng bác ái: Bác ái Kitô giáo không chỉ được thể hiện đối với những người còn sống mà cả đối với những người đã qua đời. Đức bác ái thúc đẩy ta cầu nguyện và dâng những việc lành phúc đức cho tất cả các linh hồn bên kia thế giới. Lời cầu nguyện có thể rút bớt thời gian thanh luyện của các ngài nơi luyện ngục. Hãy dùng lời cầu nguyện và sự hy sinh để bày tỏ tình bác ái yêu thương đối với các ngài; bởi chúng ta là anh em, là con cùng một Cha trên trời.

* Lòng thương nhớ: Chúng ta trực tiếp tỏ lòng thương nhớ người quá cố, nhất là đối với cha mẹ, anh chị em thân thương…;đồng thời, ao ước cho họ được yên nghỉ muôn đời trong nơi mát mẻ hạnh phúc, đó cũng là tâm lý thông thường của mỗi người.

 

3. Ý thức hơn về thân phận chóng qua của kiếp người ở đời này:

Quả thực, đời người chóng qua “tựa đoá hoa mới nở đã tàn, con người qua mau, khác nào bóng câu qua cửa sổ” (G 14,2). Nhờ đó, giúp chúng ta biết tìm sống cho những thực tại thiêng liêng mà Chúa đã và đang mời gọi mỗi người. Đừng chỉ chạy theo những danh lợi của đời này mà quên đi việc chăm lo cho sự sống của linh hồn mình thật đáng quý và đáng thương biết bao.

Tóm lại, khi dâng các việc lành phúc đức và cầu nguyện cho những người đã khuất là cách thế để chúng ta tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời đời, vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công và vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng trực tiếp bày tỏ lòng biết ơn, lòng thảo hiếu và lòng bác ái đối với các ngài. Ngoài ra, còn giúp ta sống ý thức hơn về thân phận chóng qua của kiếp người để biết ra công tìm kiếm chân lý của Chúa. Qua đó, chúng ta có thể thấy được rằng lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời không chỉ là lễ của người chết, chỉ tưởng nhớ người đã khuất, mà còn là lễ của người sống, những người đang trên đường bước vào ánh sáng vinh quang của Chúa.

 

4. Một tình trạng vui trong niềm hy vọng:

Các linh hồn ở trong luyện ngục là ở trong tình trạng vui trong niềm hy vọng. Vui vì họ biết mình vẫn còn trong tình trạng ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhất là họ biết rằng họ sẽ được đảm bảo sự sống thiên đàng bên Chúa và các thánh của Người. Một niềm hy vọng rất thực tế và họ biết chắc là sẽ đạt được. Đây coi như là một giai đoạn chuẩn bị sau cùng để họ được vào cõi sống đời đời. Thử hỏi bạn rằng, khi bạn biết chắc chắn ngày mai bạn sẽ trúng số, tâm trạng của bạn sẽ như thế nào? Câu trả lời nằm trong tim của bạn. Có phải bạn sẽ rất vui không?!? Mà ở đây chắc chắn họ sẽ còn vui hơn trúng số nữa vì được hưởng cả một gia tài của sự sống bất diệt bên Đấng họ hằng khát khao và mong mỏi, mà điều cao quý nhất đó là chiếm hữu được chính Chúa – là Nguồn sống thật. Chính vì thế, dù có phải trãi qua lửa luyện tội đau đớn họ vẫn không hề bi quan nhưng luôn tràn đầy niềm lạc quan và hy vọng.

 

IV. Tại sao cần cầu nguyện cho các linh hồn?

Sở dĩ chúng ta cần cầu nguyện cho họ là vì các linh hồn mất khả năng tự lập công cho mình nhưng chỉ nhờ công đức của chúng ta cầu thay nguyện giúp cho các ngài. Vả lại, việc cầu nguyện cho các ngài cũng là bổn phận của mỗi người chúng ta – những người đang sống. Vì chúng ta cùng sống trong mầu nhiệm các thánh thông công. Chúng ta là các chi thể của nhau trong cùng nột “thân thể duy nhất”, nên chúng ta không thể nào làm ngơ giả điếc khi có một chi thể bị đau đớn.

Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức được điều đó để chúng ta sống tốt bổn phận của mình với những người đã qua đời. Amen!


conggiao.info

 

Tháng 11: Cầu Cho Các Linh Hồn -

Các điều kiện lãnh Ơn Toàn Xá trong tháng 11 được điều chỉnh 

Tòa Ân giải Tối cao đã ban hành một sắc lệch cho phép việc lãnh nhận Ơn Toàn Xá cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời có thể được thực hiện trong suốt tháng 11.

Sắc lệnh giải thích, Tòa Ân giải Tối cao đã nhận được nhiều thỉnh nguyện của các mục tử xin cho việc thực hành đạo đức “cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời” được thực hiện phù hợp với bối cảnh đại dịch, Tòa Ân giải Tối cao đã quyết định: 

“Ơn Toàn Xá được ban cho những ai:

- Viếng nghĩa trang và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, thông thường chỉ trong những ngày từ 1-8/11, có thể chuyển sang các ngày khác đến hết tháng 11. Những ngày này, do mỗi tín hữu tự chọn, có thể tách biệt nhau” (không cần các ngày liên tiếp).

- Bên cạnh đó, sắc lệnh cũng điều chỉnh việc lãnh nhận Ơn Toàn Xá vào ngày 2/11, ngày lễ “cầu nguyện cho các tín hữu qua đời”, khi viếng nhà thờ hoặc nhà nguyện và đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Tin Kính, có thể dời không chỉ vào ngày Chúa Nhật trước hoặc sau đó, hoặc vào ngày lễ Các Thánh, mà còn có thể vào một ngày nào khác của tháng 11, do mỗi tín hữu tự chọn.

- Thêm vào đó, riêng đối với những người già, người bệnh hoặc những ai vì lý do nghiêm trọng không thể ra khỏi nhà, cũng có thể lãnh nhận Ơn Toàn Xá, miễn là họ hiệp nhất thiêng liêng với các tín hữu khác, hoàn toàn xa lánh tội lỗi và với ý hướng thực hành ba điều kiện thông thường: xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng. Họ có thể làm việc này trước một bức ảnh Chúa Giêsu hay Đức Mẹ, đọc kinh cầu cho những người đã qua đời hoặc một bài đọc Kinh Thánh vv… để dâng cho Chúa những đau khổ và khó khăn của mình.

 

Sắc lệnh cũng kêu gọi các linh mục, trong năng quyền của mình, quảng đại cử hành bí tích Giải Tội và trao Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân. Đồng thời, vì lợi ích cho các linh hồn trong Luyện ngục, tất cả các linh mục đều được mời gọi cử hành ba Thánh Lễ trong ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, theo Tông hiến Incruentum Altaris, do Đức Benedictô XV ban hành 10/08/1915.

 

Theo tông huấn GIÁO LÝ ÂN XÁ (Indulgentiarum Doctrina) do Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành ngày 1 tháng 1 năm 1967 thì:

1. Ân xá là sự tha thứ trước mặt Chúa các hình tạm phải chịu dù tội đã được tha cho những môn đệ Chúa Kitô, với điều kiện xác định qua sự can thiệp của Giáo Hội như thừa tác viên cứu rỗi, tha thứ với thẩm quyền và áp dụng kho tàng đền tội do Chúa Kitô và các thánh đã lập (x.Thành luật, n.1)

2. Sự tha thứ hình phạt tạm gọi bằng tên riêng là ân xá. Đây là cách giảm bớt dấu vết tội, đồng thời tẩy sạch các dấu vết tội đó. Qua ân xá, Giáo Hội lợi dụng sức mạnh của Chúa Kitô, qua lời cầu nguyện và sự can thiệp của quyền bính, áp dụng cho người tín hữu như họ chuẩn bị, kho tàng đền bù mà Chúa Kitô và các thánh đã lập để tha các hình phạt tạm.

3. Mục đích khi quyền bính Giáo Hội ban ân xá, không những nhằm cho các tín hữu thoát khỏi hình phạt mà còn thúc đẩy họ làm việc đạo đức, đền tội và bác ái để gia tăng đức tin và mưu cầu công ích.

4. Khi người tín hữu lãnh ân xá cho người chết, họ vun trồng đức bác ái cách tuyệt diệu và khi họ hướng tâm trí về trời, họ cũng khôn ngoan hơn nơi trần thế. (Tông huấn Số 8)

5. Muốn hưởng ân xá, người tín hữu phải có những điều kiện sau.

- Xưng tội. -  Rước lễ. - Cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng. - Viếng nhà thờ.

 

Để lãnh ơn đại xá (còn gọi là toàn xá), phải làm việc có đại xá và giữ 3 điều kiện là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.

- Việc xưng tội: Một lần xưng tội để để lãnh nhiều ơn đại xá. Có nghĩa là cho đến khi nào ta phạm tội trọng thì ta mới đi xưng, nếu còn rước lễ được thì không buộc phải xưng.

- Việc rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng phải làm cùng và trong ngày ta lãnh ơn xá (x.Thành luật n.8). Nghĩa là ta phải đi tham dự thánh lễ và rước lễ trong ngày đó nhưng không nhất thiết là tham dự tại nhà thờ đó hoặc vào giờ đó. Ta có thể tham dự thánh lễ ở nhà thờ nào cũng được và đi viếng nhà thờ đã được chỉ định lúc nào trong ngày cũng được.

 

Cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, coi như đầy đủ khi đọc một kinh Lạy Cha và một kinh Kính Mừng (x.Thành luật n.10)

Khi đi viếng nhà thờ đã được chỉ định để lãnh ân xá tín hữu sẽ đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Tin Kính (x.Thành luật,n.16) .

Mỗi ngày chỉ lãnh được một ơn đại xá hay toàn xá (x.Thành luật, n.6)

Tóm lại, để được lãnh ơn toàn xá, ta phải xưng tội (nếu cần), tham dự thánh lễ và rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng và đi viếng nhà thờ mỗi ngày hay mỗi khi có thể. Phải làm các việc này trong một ngày. Mỗi ngày làm thì mỗi ngày lãnh được một ơn toàn xá. Mỗi lần làm thì mỗi lần lãnh được một ơn toàn xá.

Nếu ta không tham dự thánh lễ và rước lễ thì dù ta có cầu nguyện và đi viếng nhà thờ thì ta cũng không được lãnh ơn toàn xá. Hay ta có tham dự thánh lễ mà không rước lễ thì ta cũng không được lãnh ân xá.

Đi viếng nhà thờ thì đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng và một kinh Tin Kính, cầu theo ý Đức Giáo Hoàng (x.Thành luật,n.10).

 

Vatican News -

ĐTC Phanxicô ban hành Thông điệp thứ tư, “Người đã yêu thương chúng ta”

Ngày 24/10/2024, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Thông điệp thứ tư có tên “Dilexit nos” (Người đã yêu thương chúng ta). Thông điệp lược lại suy tư truyền thống và hiện tại “về tình yêu theo chiều kích con người và Thiên Chúa của trái tim Chúa Giêsu Kitô”, mời gọi chúng ta canh tân lòng sùng kính đích thực của mình để không quên sự dịu dàng của đức tin, niềm vui của việc hiến thân phục vụ và lòng nhiệt thành của sứ mạng.

Thông điệp về Thánh Tâm Chúa Giêsu được ban hành trong bối cảnh các cử hành kỷ niệm 350 năm lần đầu tiên Thánh Tâm Chúa Giêsu hiện ra với Thánh nữ Magarita Maria Alacoque, vào năm 1673; các cử hành này sẽ kết thúc vào ngày 27/6/2025.

Thông điệp gồm 220 số, được chia thành 5 chương, bắt đầu với lời của Thánh Phaolô nói về Chúa Kitô: “Dilexit nos” (Người đã yêu thương chúng ta) (Rm 8,37) để giúp chúng ta khám phá rằng “không gì có thể tách rời chúng ta” khỏi tình yêu này (Rm 8,39).

Đức Thánh Cha cũng viết trong số đầu tiên của Thông điệp: “Trái tim rộng mở của Người đi trước chúng ta và chờ đợi chúng ta vô điều kiện, không đòi hỏi bất kỳ yêu cầu nào trước để có thể yêu thương chúng ta và cống hiến cho chúng ta tình bạn của Người: Người yêu thương chúng ta trước” (x. 1 Ga 4,10). Nhờ Chúa Giêsu “chúng ta đã biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1 Ga 4,16)” (1).

 

Trong Trái Tim Chúa Giêsu chúng ta nhận ra chính mình và học cách yêu thương

Trong một xã hội với sự gia tăng của “nhiều hình thức tôn giáo khác nhau mà không đề cập đến mối quan hệ cá nhân với Thiên Chúa tình yêu” (87), trong khi Kitô giáo thường quên mất “sự dịu dàng của đức tin, niềm vui của việc cống hiến để phục vụ, lòng nhiệt thành truyền giáo từ người này sang người khác” (88), Đức Thánh Cha đề xuất tái đào sâu về tình yêu của Chúa Kitô được thể hiện trong Thánh Tâm Người và mời gọi chúng ta canh tân lòng sùng kính đích thực của mình bằng cách nhớ rằng trong Trái Tim Chúa Kitô “chúng ta có thể tìm thấy toàn bộ Tin Mừng” (89): chính trong Trái Tim Người mà “cuối cùng chúng ta nhận ra chính mình và học cách yêu thương” (30).

Đức Thánh Cha giải thích rằng bằng cách gặp gỡ tình yêu của Chúa Kitô, “chúng ta có khả năng dệt nên những mối dây huynh đệ, nhận ra phẩm giá của mỗi con người và cùng nhau chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta” (217). Và trước Trái Tim Chúa Kitô, ngài cầu xin Chúa “một lần nữa tỏ lòng thương xót đối với trái đất bị thương tích này” bằng cách tuôn đổ trên đó “những kho tàng ánh sáng và tình yêu của Người”, để thế giới “tồn tại giữa chiến tranh, những mất cân bằng kinh tế xã hội, chủ nghĩa tiêu thụ và việc sử dụng công nghệ chống con người, có thể phục hồi điều quan trọng và cần thiết nhất: trái tim” (31).

 

Chương 1: Tầm quan trọng của trái tim

Chương thứ nhất, “Tầm quan trọng của trái tim”, giải thích tại sao cần phải “trở về với trái tim” trong một thế giới mà chúng ta bị cám dỗ “trở thành những người tiêu dùng vô độ” (2). Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng hiện nay tầm quan trọng của trái tim bị đánh giá thấp lại do “chủ nghĩa duy lý Hy Lạp và tiền Kitô giáo, chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật hậu Kitô giáo”, vốn ưa thích các khái niệm như “lý trí, ý chí hay tự do”.

 

Chương 2: Những cử chỉ và lời nói yêu thương của Chúa Kitô

Chương thứ hai nói về những cử chỉ và lời nói yêu thương của Chúa Kitô, những cử chỉ qua đó Người cư xử với chúng ta như những người bạn và cho thấy rằng Thiên Chúa “là sự gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng”.

 

Chương 3: Đây là trái tim đã yêu thương rất nhiều

Trong chương thứ ba, “Đây là trái tim đã yêu thương rất nhiều”, Đức Thánh Cha cho thấy rõ rằng Trái Tim Chúa Kitô chứa đựng “ba mặt của tình yêu”: sự nhạy cảm của trái tim thể lý “và tình yêu thiêng liêng kép của Người, con người và Thiên Chúa” (66), trong đó chúng ta tìm thấy “cái vô hạn trong cái hữu hạn” (64). Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta canh tân lòng sùng kính Trái Tim Chúa Kitô cũng để chống lại “những biểu hiện mới của một “linh đạo phi thân xác” hiện diện trong xã hội” (87). Cần phải quay trở lại với “sự tổng hợp nhập thể của Tin Mừng” (90) khi đứng trước “các cộng đồng và các mục tử chỉ tập trung vào các hoạt động bên ngoài, những cải cách cơ cấu không có Tin Mừng, các ám ảnh về tổ chức, các dự án trần thế, những suy tư thế tục hóa”, trước các đề xuất “mà đôi khi đòi áp đặt lên mọi người” (88).

 

Chương 4: Tình yêu ban nước Thánh Thần

Trong chương thứ tư, “Tình yêu ban nước uống”, Đức Thánh Cha trích dẫn một số Giáo phụ đã nói về “vết thương nơi cạnh sườn Chúa Giêsu là nguồn gốc của nước Thánh Thần” làm dịu đi cơn khát tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta. Thánh Augustinô “đã mở đường cho việc sùng kính Thánh Tâm như một nơi gặp gỡ cá nhân với Chúa” (103).

Đức Thánh Cha nhắc lại, dần dần khía cạnh bị thương tích này “đã mang hình dáng của trái tim”, và liệt kê một số phụ nữ thánh thiện đã “kể lại những kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô, được đặc trưng bởi sự an nghỉ trong Trái Tim Chúa” (110).

Đức Thánh Cha cũng nhắc lại kinh nghiệm kết nối mật thiết với Thánh Tâm Chúa Giêsu của một số vị thánh như Thánh Magarita Maria Alacoque, Thánh Têrêsa thành Lisieux, Thánh Faustina Kowalska, Thánh Gioan Phaolô II.

 

Chương 5: Tình yêu vì tình yêu

Trong chương thứ năm và cũng là chương cuối cùng “Tình yêu vì tình yêu”, Đức Thánh Cha đi sâu vào chiều kích cộng đồng, xã hội và truyền giáo của mọi lòng sùng kính đích thực đối với Trái Tim Chúa Kitô, Đấng mà khi “dẫn chúng ta đến với Chúa Cha, sai chúng ta đến với anh em của chúng ta” (163). Thực ra, “tình yêu dành cho anh em” là “cử chỉ lớn nhất mà chúng ta có thể cống hiến cho họ để đáp lại tình yêu bằng tình yêu” (167). Nhìn vào lịch sử linh đạo, Đức Thánh Cha nhắc lại rằng sự dấn thân truyền giáo của Thánh Charles de Foucauld đã biến ngài thành một “người anh em phổ quát”: “để cho mình được uốn nắn bởi Trái Tim Chúa Kitô, ngài muốn đón nhận toàn thể nhân loại đang đau khổ trong trái tim huynh đệ của mình” (179).

 

Đền tạ Thánh Tâm

Sau đó, Đức Thánh Cha nói về “sự đền tạ” Thánh Tâm, như Thánh Gioan Phaolô II giải thích: “bằng cách cùng nhau hiến thân cho Trái Tim Chúa Kitô, trên những đống đổ nát do hận thù và bạo lực tích tụ, Người có thể xây dựng nền văn minh của tình yêu mà nhiều người mong ước, vương quốc của trái tim Chúa Kitô” (182).

Thông điệp một lần nữa nhắc lại lời Thánh Gioan Phaolô II rằng việc thánh hiến cho Trái Tim Chúa Kitô “được so sánh với hoạt động truyền giáo của chính Giáo Hội”, và lời Thánh Phaolô VI nhấn mạnh, chúng ta cần “những nhà truyền giáo yêu thương, những người đã để Chúa Kitô chinh phục” (209).

Thông điệp kết thúc với lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha.

 

Vatican News

 

Vatican News -

Nhân Ngày Thế giới truyền giáo lần thứ 98: 20/10/2024

Trong sứ điệp nhân Ngày Thế giới truyền giáo lần thứ 98, được cử hành vào Chúa Nhật ngày 20/10 này với chủ đề là “Anh em hãy đi và mời tất cả mọi người vào dự tiệc” (x. Mt 22,9), sau khi quảng diễn các khía cạnh tinh thần, Đức Thánh Cha còn đặc biệt kêu gọi các tín hữu hỗ trợ các Hội Giáo Hoàng truyền giáo như một phương thức cụ thể đóng góp vào công cuộc loan báo Tin Mừng. Các Hội này là gì, sứ mạng và hoạt động thế nào?

Thực vậy, trong phần cuối của Sứ điệp Ngày thế giới truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha nhắc nhở các giáo phận trên thế giới về sự phục vụ của các Hội Giáo Hoàng truyền giáo, như những phương thế hàng đầu để “truyền bá nơi các tín hữu, ngay từ tuổi nhỏ, một tinh thần thực sự là hoàn vũ và truyền giáo, cũng như để giúp lạc quyên tài trợ, giúp đỡ tất cả các xứ truyền giáo và theo các nhu cầu của các xứ thuộc miền này” (Ad gentes 39). Vì thế các cuộc lạc quyên vào Ngày Thế giới truyền giáo trong tất cả các Giáo Hội địa phương hoàn toàn dành cho Quỹ liên đới chung mà Hội truyền bá Đức tin, nhân danh Đức Giáo Hoàng, phân phát theo nhu cầu của các xứ truyền giáo của Giáo Hội.

 

4 Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo

Hội truyền bá đức tin

Đứng đầu trong 4 Hội Giáo Hoàng truyền giáo là Hội truyền bá đức tin do nữ chân phước Pauline Jaricot, một giáo dân người Pháp, chính thức thành lập ngày 3/5/1822, và chị đã được Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng trưởng Bộ loan báo Tin Mừng, đại diện Đức Thánh Cha tôn phong chân phước hồi tháng 5/2022 tại Lyon, bên Pháp.

Các ngân khoản quyên góp được trong tất cả các giáo phận trên thế giới được dùng để tài trợ thường lệ và ngoại thường cho 1.100 giáo phận tại các xứ truyền giáo, trong đó có Việt Nam, giúp đỡ các thừa sai, các giáo lý viên chuyên nghiệp và các giáo phận về những gì cần thiết cho việc loan báo Tin Mừng. Một phần ngân khoản cũng được dùng để hỗ trợ Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, và cả chi phí của các Tòa Sứ thần và Khâm Sứ Tòa Thánh ở các xứ truyền giáo.

 

Hội thánh Phêrô Tông đồ

Là một hội có mục đích đào tạo và nâng đỡ hàng giáo sĩ bản xứ. Từ thế kỷ XVI đến XIX, Giáo Hội vẫn thường lưu ý về vấn đề hàng giáo sĩ bản xứ. Các thừa sai tại bất kỳ nước nào đều xác tín rằng hoạt động của mình sẽ thiếu sót nếu không đạt tới việc thành lập một hàng giáo sĩ địa phương. Nhưng việc thực hiện này luôn gặp phải nhiều chướng ngại và khó khăn. Nhất là thiếu phương tiện tài chánh và nhân sự để thành lập các chủng viện để huấn luyện các chủng sinh. Để tìm giải pháp, các thừa sai tha thiết kêu gọi các ân nhân ở Âu Châu. Cụ thể là trường hợp Đức Cha Jules-Alphone Cousin, thuộc Hội thừa sai Paris, Đại diện tông tòa ở miền nam Nhật Bản, với trụ sở ở Nagasaki, đã phải đau lòng trả nhiều người trẻ có ơn gọi Linh Mục rõ ràng trở về gia đình. Ngài liên lạc với ân nhân ở Pháp qua một lá thư ngày 1/6/1889 gửi bà Jeanne Bigard (1859-1934) cùng với thân mẫu của bà. Điểm khởi hành của Hội Thánh Phêrô bắt đầu từ đó. Hai bà bắt đầu quyên góp để giúp đỡ các chủng sinh. Chẳng bao lâu sau, Hội do hai bà thành lập lan rộng sang các nơi ở Pháp và các nước Âu Châu. Năm 1922, Đức Giáo Hoàng Piô XI nâng hội này lên hàng Hội Giáo Hoàng truyền giáo.

 

Tài trợ

Hiện nay, với các ngân khoản quyên góp được, đặc biệt vào dịp lễ Thánh Phêrô và Phaolô, Hội Giáo Hoàng Thánh Phêrô tông đồ tài trợ thường xuyên cho hơn 750 đại chủng viện và tiểu chủng viện tại các xứ truyền giáo, trong đó có cả Việt Nam. Ngoài ra, các tập viện của các dòng giáo phận cũng được trợ giúp.

Riêng tại Roma, Bộ Loan báo Tin Mừng, qua hội Thánh Phêrô Tông Đồ, cấp học bổng cho khoảng 500 Linh Mục và chủng sinh: tại Trường truyền giáo, tức là Học viện Giáo Hoàng Urbano, khoảng 160 thầy; tại trường thánh Phêrô, 180 Linh Mục; trường Thánh Phaolô tông đồ, 190 Linh Mục; và Học viện Mẹ Giáo Hội, Mater Ecclesiae, dành cho các nữ tu ở Castel Gandolfo có 120 chỗ. Đại Học Giáo Hoàng Urbaniana thuộc Bộ Loan báo Tin Mừng, cũng nhận được tài trợ của Hội Thánh Phêrô Tông Đồ.

 

Hội Nhi đồng truyền giáo

Cũng gọi là Hội Thánh Nhi, có mục đích giúp các trẻ em nhạy cảm đối với những nhu cầu của các trẻ em nghèo tại các nước. Hội này do Đức Cha Charles de Forbin-Janson, Giám Mục giáo phận Nancy bên Pháp, thành lập năm 1843. Hồi đó ngài tìm cách giúp đỡ các thừa sai ở Trung Hoa khi họ viết thư cho ngài xin giúp đỡ vật chất và tinh thần. Theo lời khuyên của Pauline Jaricot, người sáng lập Hội truyền bá đức tin 20 năm trước đó, Đức Cha thành lập một tổ chức từ thiện gồm các trẻ em giúp đỡ các trẻ đồng lứa ở các nước thuộc các xứ truyền giáo. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã phê chuẩn Hội này năm 1856 và Đức Giáo Hoàng Piô XI nâng hội lên hàng Hội Giáo Hoàng truyền giáo vào năm 1922. Ngày nay Hội lan rộng sang 130 nước và hằng năm vẫn tổ chức các cuộc lạc quyên vào lễ Chúa Hiển Linh, ngày 6/1.

 

Hội Liên hiệp truyền giáo

Được thành lập ngày 31/10/1915 do sự gợi ý của Chân phước Linh Mục Paolo Manna, thuộc Hội Giáo Hoàng truyềm giáo hải ngoại Milano, gọi tắt là PIME, với mục đích linh hoạt và huấn luyện các tín hữu về tinh thần trách nhiệm truyền giáo, qua việc mục vụ của các Giám Mục và linh mục, theo khẩu hiệu “Toàn thể Giáo Hội cho toàn thế giới”.

Hội này cũng đảm trách Trung Tâm Linh Hoạt truyền giáo, gọi tắt là Ciam, và mang tên chân phước Paolo Manna, vị sáng lập. Trung tâm được thành lập ngày 31/5/1974, theo vết Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới năm 1984 với Tông huấn “Evangelii Nuntiandi” của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.

Trung tâm Ciam tọa lạc trên đồi Giannicolo cạnh Trường Truyền Giáo. Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám Mục giáo phận Xuân Lộc từng làm Phó giám đốc lâu năm, rồi làm Giám đốc trung tâm này. Trung tâm tổ chức nhiều khóa huấn luyện cho các Linh Mục, tu sĩ và giáo dân cũng như cho các thành viên ban lãnh đạo toàn quốc và giáo dân của các Hội giáo hoàng Truyền Giáo.

Khác với 3 Hội Giáo Hoàng trên đây, Liên hiệp Truyền giáo không liên hệ gì đến vấn đề lạc quyên tài chánh, nhưng qui trọng tâm vào việc huấn luyện tinh thần truyền giáo.

Vị phụ trách Hội Giáo Hoàng linh hoạt truyền giáo hiện nay là Cha Tôma Nguyễn Đình Anh Nhuệ, dòng Phanxicô Viện Tu.

4 Hội giáo hoàng truyền giáo được đặt dưới quyền chủ tịch của một vị Tổng Giám Mục đồng Tổng Thư ký Bộ loan báo Tin Mừng, hiện nay là Đức Tổng Giám Mục Emilio Nappa, và mỗi hội đều có một vị phụ trách riêng, trong tư cách là Tổng thư ký của Hội.

 

Phân phối các khoản tài trợ

Mỗi nước trên thế giới thường có các Hội Giáo Hoàng truyền giáo và có một vị Giám đốc toàn quốc được Bộ Loan báo Tin Mừng bổ nhiệm theo sự đề cử của Hội Đồng Giám Mục địa phương. Cha Giêrônimô Nguyễn Đình Công, giáo phận Xuân Lộc, hiện nay là Giám đốc toàn quốc các Hội Giáo Hoàng truyền giáo ở Việt Nam.

Hàng năm, các vị Giám đốc toàn quốc, đến từ 120 quốc gia, về Roma nhóm họp trong khoảng 6 ngày: những ngày đầu dành để đào sâu tinh thần và những vấn đề trong việc loan báo Tin Mừng. Những ngày còn lại là để phân phối và quyết định về các ngân khoản đã lạc quyên được ở mỗi nước. Các vị nhận được hồ sơ các đơn xin tài trợ từ các nơi gởi về Bộ Loan báo Tin Mừng, để cứu xét và cùng quyết định.

Năm nay, khóa họp này đã diễn ra từ ngày 24/5 đến 31/5 tại “Nhà Huynh Đệ”, Fraterna Domus, ở Sacrofano, cách Roma 25 cây số. Trong số các tham dự viên cũng có Cha Tôma Nguyễn Đình Anh Nhuệ, Tổng Thư ký Liên hiệp Truyền giáo, một trong 4 Hội Giáo Hoàng truyền giáo, tiếp đến là Cha Giêrônimô Nguyễn Đình Công, giáo phận Xuân Lộc, Giám đốc toàn quốc Việt Nam của các hội này.

Trong những ngày họp, các Linh Mục giám đốc trao đổi về những vấn đề quan trọng hiện tại và tương lai của các Hội Giáo Hoàng truyền giáo, tìm kiếm những phương thế mới để lạc quyên giúp các xứ truyền giáo, duyệt lại các qui chế, trao đổi khẩn trương hơn giữa các vị Giám đốc toàn quốc về những dự án cần được tài trợ ở các nơi trên thế giới, cụ thể là phân phối các ngân khoản quyên góp được trong năm qua.

 

Gặp Đức Thánh Cha

Sáng ngày 25/5, các tham dự viên đã được Đức Thánh Cha tiếp kiến. Trong dịp này, ngài nhắc nhở mọi người rằng “Sứ mạng truyền giáo của các tín hữu Kitô không phải là thông truyền vài chân lý trừu tượng hoặc vài xác tín tôn giáo, nhưng trước tiên là giúp những người chúng ta gặp gỡ có thể cảm nghiệm cơ bản về tình thương của Thiên Chúa và họ có thể tìm thấy điều đó trong đời sống chúng ta và đời sống của Giáo Hội, nếu chúng ta là những nhân sáng ngời về tình thương ấy, phản ánh một tia sáng về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi”.

“Vì thế”, Đức Thánh Cha nói, “tôi nhắn nhủ tất cả anh em hãy tiến triển trong linh đạo hiệp thông truyền giáo, là căn bản của hành trình đồng hành của Giáo Hội ngày nay... Thực vậy, sứ mạng của Giáo Hội nhắm mục đích loan báo và giúp mọi người sống tình “hiệp thông” mới mà nơi Con Thiên Chúa làm người đã đi vào trong lịch sử thế giới” (Praedicate Evangelium 1,4). Và chúng ta đừng quên rằng ơn gọi hiệp thông bao hàm một lối sống hiệp hành, hay đồng hành, nghĩa là: cùng đi, lắng nghe nhau và đối thoại. Điều này mở rộng con tim chúng ta và tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn ngày càng bao quát...”.

Trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha cũng nhắc đến tinh thần sáng tạo cần có trong các hoạt động truyền giáo, nghĩ ra những cách thức luôn mới mẻ để loan báo Tin Mừng và phục vụ anh chị em, nhất là những người nghèo nhất. Ngài cũng kêu gọi các vị đặc trách việc loan báo Tin Mừng hãy kiên trì trong các dự tính và hành động. Ngài nói: “Anh em là những người điều hành các Hội Giáo Hoàng truyền giáo, anh em tiếp xúc với bao nhiêu thực tại khác nhau, những hoàn cảnh và biến cố thuộc làn sóng lớn của đời sống Giáo Hội tại tất cả các đại lục. Vì thế, anh em có thể gặp phải nhiều thách đố, những hoàn cảnh phức tạp, nặng nề, và mệt mỏi xảy ra trong đời sống Giáo Hội: anh em đừng để mình bị nản chí! Hãy có cái nhìn, con tim và sự nhạy cảm nhận ra hoạt động của Thiên Chúa, kể cả giữa nhiều khó khăn, những ơn an ủi và chữa lành mà nhiều khi Chúa không để bị thiếu, hạt giống nhiều khi ta không nhận thấy nhưng có thể sinh ra sự thánh thiện âm thầm. Chúng ta hãy chú ý nhiều hơn tới những khía cạnh, và biết kiên nhẫn đương đầu với những tình trạng khó khăn, không trở thành tù nhân của sự ù lỳ bất động và thái độ buông xuôi từ bỏ”.

GTrần Đức Anh, O.P.

 

Vatican News -

ĐTC Phanxico công bố danh sách các Tân Hồng Y 

Sau Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật ngày 6/10, sau khi xin các tín hữu cầu nguyện cho hoà bình, Đức Thánh Cha đã thông báo danh sách 21 Tân Hồng y ngài sẽ trao mũ trong Công nghị ngày 8/12, lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Các Tân Hồng y được Đức Thánh Cha chọn thuộc cả các vùng ngoại vi, các giáo phận lớn, lẫn những người đang phục vụ tại Giáo triều Roma, trong đó có vị lớn tuổi nhất là Đức Tổng giám mục Angelo Acerbi, sứ thần Tòa Thánh, 99 tuổi, và cũng là vị duy nhất trên 80 tuổi, không tham gia mật viện bầu giáo hoàng, và vị trẻ nhất là Đức cha Mykola Bychok, C.Ss.R., giám mục Giáo phận các thánh Phêrô và Phaolô Melbourne của người Ucraina, sinh ngày 13/02/1980.

Trong lời giới thiệu trước khi xướng tên các Tân Hồng y, Đức Thánh Cha nói: “Xuất thân của các vị thể hiện tính phổ quát của Giáo hội tiếp tục loan báo tình yêu thương xót của Thiên Chúa cho mọi người trên trái đất. Hơn nữa, việc bổ nhiệm các tân Hồng y vào Giáo phận Roma bày tỏ mối liên hệ không thể tách rời giữa Ngai tòa Phêrô và các Giáo hội địa phương trên khắp toàn cầu”.

Các tân hồng y đến từ: Perù, Argentina, Ecuador, Chile, Nhật Bản, Philippines, Serbia, Brazil, Bờ Biển Ngà, Algeria, Indonesia, Iran, Ý, Canada, Giáo phận Roma, Giáo phận Thánh Phêrô và Phaolô ở Melbourne của người Ucraina, thần học gia, Bộ Phục vụ Phát triển con người toàn diện, và Phủ quốc vụ khanh.

Danh sách các tân Hồng y:

  1. Đức cha Angelo Acerbi, Sứ thần Tòa Thánh.
  2. Đức cha Carlos Gustavo Castillo Mattasoglio, Tổng Giám mục Lima (Peru).
  3. Đức cha Vicente Bokalic Kalic Iglic C.M., Tổng Giám mục Santiago del Estero (Argentina).
  4. Đức cha Luis Gerardo Cabrera Herrera, O.F.M., Tổng Giám mục Guayaquil (Ecuador).
  5. Đức cha Fernando Natalio Chomalí Garib, Tổng Giám mục di Santiago de Cile (Chile).
  6. Đức cha Tarcisio Isao Kikuchi, S.V.D., Tổng Giám mục Tokyo (Nhật Bản).
  7. Đức cha Pablo Virgilio Siongco David, Giám mục Kalookan (Philippines).
  8. Đức cha Ladislav Niemet, S.V.D., Tổng Giám mục Beograd -Smederevo, (Serbia).
  9. Đức cha Jaime Spengler, O.F.M., Tổng Giám mục Porto Alegre (Brazil).
  10. Đức cha Ignace Bessi Dogbo, Tổng Giám mục Abidjan (Costa d’Avorio).
  11. Đức cha Jean-Paul Vesco, O.P., Tổng Giám mục Alger (Algeria).
  12. Đức cha Paskalis Bruno Syukur, O.F.M., Giám mục Bogor (Indonesia).
  13. Đức cha Dominique Joseph Mathieu, O.F.M. Conv., Tổng Giám mục Teheran Ispahan (Iran).
  14. Đức cha Roberto Repole, Tổng Giám mục Torino (Ý). 
  15. Đức cha Baldassare Reina, Giám mục phụ tá của Roma, từ hôm nay, Tổng Đại diện của Giáo phận Roma.
  16. Đức cha Francis Leo, Tổng Giám mục Toronto (Canada).
  17. Đức cha Rolandas Makrickas, Phụ tá Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả.
  18. Đức cha Mykola Bychok, C.Ss.R., Giám mục Giáo phận các thánh Phêrô và Phaolô Melbourne của người Ucraina.
  19. Cha Timothy Peter Joseph Radcliffe, OP, thần học gia.
  20. Cha Fabio Baggio, C.S., phó thư ký Phân bộ Di dân và tị nạn của Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện.
  21. Đức ông George Jacob Koovakad, công chức Phủ Quốc vụ khanh và chịu trách nhiệm về các chuyến tông du của Đức Thánh Cha.

 

Vatican News

 

Vatican News -

VATICAN CÔNG BỐ LOGO CHÍNH THỨC CỦA NĂM THÁNH 2025 

Trong cuộc họp báo ngày 28/6/2022, Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella, nguyên Chủ tịch Hội đồng Toà thánh về Tái truyền giảng Tin Mừng trước đây, hiện là Quyền Tổng trưởng Bộ Truyền giáo, đã công bố logo chính thức của Năm Thánh sẽ được tổ chức vào năm 2025 với chủ đề “Những người hành hương của hy vọng”.

Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella nhắc lại rằng khi các công việc chuẩn bị bắt đầu trong Giáo hội cho Năm Thánh, Hội đồng Toà thánh về Tái truyền giảng Tin Mừng trước đây đã phát động một cuộc thi dành cho tất cả mọi người, để sáng tạo logo.

Ngài cho biết có tổng cộng 294 bài dự thi đã được gửi từ 213 thành phố và 48 quốc gia khác nhau, và những người tham gia có độ tuổi từ 6 đến 83. Có nhiều bài vẽ tay của các trẻ em với tràn đầy trí tưởng tượng và đức tin đơn sơ.

Vào ngày 11/6/2022, Đức Tổng Giám mục Fisichella đã đệ trình ba bản chung kết lên Đức Thánh Cha để chọn ra một bản vẽ khiến ngài cảm động nhất. Đức tổng cho biết: “Sau khi xem xét các dự án nhiều lần và bày tỏ ý thích của mình, Đức Thánh Cha đã chọn bản thiết kế của Giacomo Travisani.”

 

Ý nghĩa logo

Giải thích về logo, tác giả Giacomo Travisani cho biết mình đã tưởng tượng cách thế tất cả mọi người cùng nhau tiến bước, có thể tiến bước “nhờ ngọn gió Hy vọng là Thánh giá của Chúa Kitô và chính Chúa Kitô.”

Logo trình bày bốn nhân vật cách điệu, biểu thị tất cả nhân loại từ bốn phương của trái đất. Mọi người đều ôm nhau, biểu thị tình liên đới, huynh đệ đoàn kết các dân tộc. Người thứ nhất đang bám vào Thánh giá. Những con sóng bên dưới vỗ mạnh để chỉ ra rằng cuộc hành hương của cuộc sống không phải lúc nào cũng trên mặt nước phẳng lặng.

Bởi vì các hoàn cảnh cá nhân và các sự kiện thế giới thường mời gọi một cảm giác hy vọng lớn hơn, một mô tả của logo với phần dưới của Thánh giá được thuôn dài biến thành mỏ neo, làm im chuyển động của các ngọn sóng. Mỏ neo thường được sử dụng như ẩn dụ cho hy vọng.

Hình ảnh cho thấy cuộc hành trình của người hành hương không phải là cá nhân, mà là mang tính cộng đồng, với những dấu hiệu của một sự năng động ngày càng tiến về phía Thánh Giá.

Đức tổng Fisichella gợi ý: “Thánh giá không tĩnh tại, mà là năng động, hướng đến và gặp gỡ nhân loại như thể không muốn bỏ mặc nó, mà là mang đến sự chắc chắn về sự hiện diện của Thánh giá và sự bảo đảm của hy vọng”.

Châm ngôn của Năm Thánh 2025, “Những người hành hương của hy vọng”, màu xanh lục, cũng được thấy rõ.

 

Hồng Thủy

 

Tìm Hiểu & Sống Thánh Lễ -

Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐI LỄ NGÀY CHÚA NHẬT 

Tại sao đạo Công Giáo lại bắt các tín hữu phải đi lễ vào Chúa Nhật? Con đi lễ từ thứ hai đến thứ bảy chẳng lẽ không bằng một người chỉ đi lễ ngày Chúa Nhật à?

Chào bạn,

Bất cứ một tôn giáo nào cũng có những buổi cử hành lễ tế như là một hành vi thờ phượng dành cho Đấng Tối Cao của mình. Đối với người Công Giáo, hành vi thờ phượng được cho là cao nhất chính là việc hiệp cùng với vị linh mục dâng thánh lễ. Trong thánh lễ ấy, chúng ta tái hiện lại cuộc tế lễ năm xưa Đức Giêsu đã dâng trên cây thập giá. Người dâng là Đức Giêsu, của lễ dâng lên Chúa Cha cũng chính là Đức Giêsu. Thánh lễ là một cuộc quy tụ của cả vũ trụ hướng về tâm điểm Giêsu, để cùng Giêsu hướng về Cha. Bởi thế, ơn ích mà một thánh lễ mang lại là rất lớn và không sao đo lường được. Tự bản chất, thánh lễ là vô giá, dù nó được cử hành ở nơi trang nghiêm như các Vương Cung Thánh Đường rộng lớn hay nơi một nhà tù dơ bẩn ẩm thấp, dù do Đức Giáo Hoàng chủ sự hay một cha già nằm trên giường bệnh dâng. Vậy nếu thánh lễ là vô giá thì dù bạn đi lễ ngày thường hay ngày Chúa Nhật thì xét về mặt ơn ích, bạn vẫn lãnh nhận được cùng một ơn lành.

Việc muốn các tín hữu đi lễ ngày Chúa Nhật như một điều bắt buộc không liên quan đến tính giá trị của một thánh lễ (vì như đã nói ở trên, thánh lễ nào cũng đều vô giá cả), nhưng liên quan đến ý nghĩa đặc biệt của ngày Chúa Nhật và mức độ ưu tiên của nó hơn những ngày khác trong tuần. Thiên Chúa là Đấng vượt trên không gian và thời gian, nếu đối với Ngài, ngày nào cũng như ngày nào. Nhưng đối với con người thì không như vậy. Không chỉ riêng trong lĩnh vực tôn giáo, nhưng chính kinh nghiệm bản thân cũng cho chúng ta thấy rằng ngày Chúa Nhật có cái gì đó khác với những ngày khác. Nó là một ngày đặc biệt hơn, chất chứa nhiều ý nghĩa hơn. Chúng ta hãy cùng điểm lại một vài chi tiết trong Kinh Thánh cho thấy ý nghĩa trọng đại có một không hai của ngày Chúa Nhật khiến cho nó trở thành ngày trọng đại để dâng lễ tế. 

Trước hết, trong trình thuật Sáng Thế, tác giả cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã hoàn tất công trình tạo dựng và “ngày thứ bảy [tức là ngày Chúa Nhật của mình] Người nghỉ ngơi và Thiên Chúa chúc lành cho ngày này” (x. St 2,3). Trong sách Xuất Hành, khi ban luật cho dân, Thiên Chúa đã nói rằng “trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Nhưng ngày thứ bảy [ngày Chúa Nhật] là hưu lễ kính Thiên Chúa của ngươi; ngươi không được làm bất cứ việc nào, ngươi và con trai con gái ngươi, tớ trai tớ gái của ngươi. Vì trong sáu ngày, Thiên Chúa đã làm nên trời đất, biển và tất cả mọi sự trong các nơi ấy, nhưng Người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy, bởi thế, Thiên Chúa đã chúc lành cho ngày thứ bảy và tác thành nó” (Xh 20,9-11).

Trong thời gian lưu đày ở Babilon, dân Israel rơi vào khủng hoảng. Họ tự vấn, không biết Thiên Chúa bây giờ ở đâu vì lúc đó không còn Đền Thờ, không còn đất hứa như lời Thiên Chúa đã hứa cùng tổ phụ Apraham và với vua Đa-vít nữa. Chính lúc này, Thiên Chúa cho họ biết rằng Thiên Chúa không còn ngự ở một nơi (Đền Thờ) như trước, nhưng là hiện diện trong một thời gian, đó chính là ngày Sabat (ngày Chúa Nhật). Ngày Sabat là ngày của Thiên Chúa, ngày Thiên Chúa đưa đến hoàn tất tất cả những gì còn dang dở trong công trình tạo dựng. Việc Đức Giêsu làm phép lạ chữa lành các bệnh nhân trong ngày Sabat chính là để thể hiện ý này: Ngài cho thấy mình là Thiên Chúa, đến để hoàn tất công trình cứu độ. (Tiếc thay, những người Pharisêu đã không hiểu, lại còn lên án Đức Giêsu). 

Hơn hết, ngày Chúa Nhật là ngày quan trọng vì đó là ngày là Đức Giêsu – Chúa chúng ta – đã phục sinh. Điều này một lần nữa bổ sung cho tính “hoàn tất” của ngày Chúa Nhật. Với sự phục sinh của Đức Giêsu, ngày Chúa Nhật mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó cho thấy sự hoàn thành của một công trình tạo dựng mới mà Thánh Thần thực hiện nơi Đức Giêsu. Đó cũng chính là đỉnh điểm của ơn cứu độ và là điểm đến của mọi loài thụ tạo trong trời đất. Từ ý nghĩa này, ngày Chúa Nhật được Giáo Hội chọn để tất cả con cái mình ở khắp nơi quy tụ về với nhau, cùng nhau long trọng dâng lên Thiên Chúa Cha lời tạ ơn từ sâu thẳm con tim mình, tưởng nhớ rằng chính vào ngày này là ngày Thiên Chúa hoàn tất mọi sự, ngày mà chúng ta được thánh hoá, ngày ân sủng của Thiên Chúa, “ngày Thiên Chúa làm ra”. Họp nhau vào ngày Chúa Nhật tại thế giới này báo trước một cuộc họp mặt với nhau trong bàn tiệc vĩnh cữu trên trời mai sau. Thánh lễ ngày Chúa Nhật là một lễ tế của toàn thể dân Chúa, nó mang tính chất của một cộng đoàn là toàn thể Giáo Hội. Nó hệt như ngày tất cả con cái về nhà với cha mẹ, thăm cha mẹ, cùng nhau chia sẻ bữa ăn thân mật và trò chuyện vui vẻ với nhau. 

Trong mỗi thánh lễ, Chúa cần hơn hết nơi chúng ta một tấm lòng. Thánh lễ sẽ trở nên vô nghĩa nếu chúng ta chỉ đi vì bắt buộc, vì thói quen. Nếu không vì yêu mến, không xuất phát từ việc ý thức được tầm quan trọng của nó, ta sẽ cảm thấy việc đi lễ là một điều gì đó rất nặng nề. Quả thật, nếu bạn hiểu được ý nghĩa của thánh lễ, đặc biệt là thánh lễ của ngày Chúa Nhật, bạn sẽ không đặt lên bàn cân để so sánh mức độ hơn kém thiệt hơn là các thánh lễ ngày thường với thánh lễ ngày Chúa Nhật. 

Ngoài ra, cũng cần phải ý thức rằng, Thiên Chúa và mẹ Giáo Hội không khắc khe đến độ đòi buộc các tín hữu phải đi lễ ngày Chúa Nhật bằng mọi giá. Nếu bạn gặp phải một lý do nào đó bất khả kháng như bệnh tật, đang ở nơi không có linh mục… thì chỉ cần bạn hướng lòng về Chúa thì cũng đã làm cho Ngài vui lòng rồi. Thử lấy một ví dụ thế này: khi có người yêu, ta có thể quan tâm và tặng quà cho người yêu vào bất cứ ngày nào. Nhưng nếu mình quan tâm, đến thăm và tặng quà cho người yêu vào đúng một ngày nào đó có ý nghĩa đặc biệt của người ấy (sinh nhật…) hoặc của cả hai (ngày Valentine hoặc kỷ niệm ngày quen nhau…) thì điều đó sẽ có ý nghĩa hơn rất nhiều, phải không?

Đến đây, chắc là bạn đã có thể tự trả lời cho câu hỏi của mình rồi nhỉ!

Xin Chúa chúc lành cho bạn!

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ.

 

Noi Gương Thánh Bổn Mạng GX -

THÁNH ANRÊ TRẦN AN DŨNG LẠC – LINH MỤC (1795 - 1839) 

Thánh Anrê Dũng Lạc sinh năm 1795 tại tỉnh Bắc Ninh. Cha mẹ là những người ngoại giáo nghèo. Năm cậu Trần An Dũng Lạc 11 tuổi thì cha mẹ di chuyển gia đình tới Hà Nội để tìm cách mưu sống. Vì gia đình quá nghèo nên cha mẹ cậu gửi gắm cậu cho một Thầy Giảng giúp đỡ nuôi dưỡng, cho cậu ăn học. Cậu là một đứa trẻ rất thông minh, có trí nhớ lạ lùng, chỉ trong một tuần lễ cậu đã học hết cuốn sách giáo lý. Tính tình hiền lành, lại rất ngoan ngoãn, siêng năng chu toàn với mọi công việc được giao phó. Năm 12 tuổi, cậu được  Rửa Tội,  nhận tên thánh là Anrê. Sau đó cậu được gửi vào trường Vĩnh Trị do cha Leroy Lan làm Bề trên. Tại trường Vĩnh Trị, cậu siêng năng cần mẫn. Cậu học chữ Nho và La tinh một cách mau chóng và dễ dàng. Cậu có năng khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người một cách lịch thiệp hoà nhã. Các bạn đồng lớp nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là cậu đã nhớ thuộc lòng. Sau 8 năm ở trường Vĩnh Trị, cậu lãnh bằng Thầy Giảng.

Sau 10 năm làm Thầy Giảng và học tiếp 3 năm Thần học, ngày 15 tháng 3 năm 1823 thầy Anrê Trần An Dũng Lạc được Đức Cha Longer phong chức linh mục cùng lớp với thánh Ngân và thánh Nghi. Lúc đó, cha Dũng Lạc mới 28 tuổi. Sau đó, cha Dũng Lạc được bổ nhiệm làm cha phó xứ ở Đồng Chuối, giúp cha Khiết, rồi giúp cha Thi ở xứ Đoài và cha Thuyết ở xứ Sơn Miêng. Một thời gian sau, Đức Giám mục bổ nhiệm cha về làm chánh xứ giáo xứ Kẻ Đầm. Lúc ấy, cha Anrê Trần An Dũng Lạc đã 40 tuổi. Dù là cha phó hay cha chánh, dù ở bất cứ nơi nào, cha cũng đưọc mọi người yêu quý vì tính tình hiền hoà, xử sự khôn ngoan, lại giảng giải sốt sắng, dễ hiểu. Đối với giáo dân, cha dễ dãi, hoà đồng, vui vẻ. Nhưng với chính mình thì cha rất nhiệm nhặt trong cách ăn mặc. Cha ăn chay hằng tuần trong các ngày thứ Tư và thứ Sáu. Cha luôn quan tâm giúp đỡ những người nghèo khó, ưu ái chia sẻ cơm áo cho những người cần tới cha. Cha hết lòng hy sinh với nhiệm vụ của một chủ chăn. Cha ân cần lo lắng tới đời sống thiêng liêng của từng giáo dân.

Ngày 6 tháng 1 năm 1833 vua Minh Mạng ban hành sắc chỉ cấm đạo một cách gay gắt, cha phải ẩn trốn tại các gia đình tín hữu, nay ở nhà này mai ở nhà kia. Nhưng rồi tình hình cũng không yên ổn nên cha lại phải trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó.

Một hôm trong năm 1835 khi cha vừa dâng lễ xong tại Kẻ Sui thì quân lính xông tới. Cha vội cởi áo lễ trao cho mấy người tín hữu cất giấu còn cha thì ngồi lẫn lộn trong đám dân đông đảo. Quân lính tới bắt cha cùng với 30 người khác. Ông tổng Thìn phải đưa 6 nén bạc cho quan Hào Khánh ở Đôn Thư xin dàn xếp với quan phủ cho cha khỏi bắt. Quan huyện Hào Khánh lấy 4 nén bạc còn 2 nén cho người nhà quan phủ và trình rằng: “Cậu tôi về xem lễ ở Kẻ Sui mà quan bắt thì xin tha”. Quan tha cho cha còn những người khác thì sau đó cũng lần lượt được tha hết. Từ đây quan quân đã biết tên cha Trần An Dũng, nên cha đổi tên là Lạc. Vì thế, cha mới có tên là Trần An Dũng Lạc.

Lần khác, khi cha tới Kẻ Sông lén lút gặp cha Phêrô Trương Văn Thi để xưng tội thì không may bị lý Pháp là lý trưởng làng Kẻ Sông theo dõi, đưa gia nhân tới đột kích bắt hai cha. Tín hữu nghe tin hai cha bị lý Pháp bắt thì kéo nhau tới đông đảo xin lý Pháp tha cho hai cha. Lý Pháp đòi các tín hữu phải nộp 200 quan thì sẽ tha. Các tín hữu gom góp chỉ được 100 quan thì lý Pháp nhận 100 quan và chỉ tha cho cha Dũng Lạc còn cha Phêrô Trương Văn Thi thì bị bắt giải lên nộp cho quan huyện Bình Lục. Cha Anrê Trần An Dũng Lạc được tha, nhưng trên đường trở về thì lại gặp trời mưa to gió lớn, thuyền cha phải ghé vào bờ trú ẩn tại ngôi nhà quen thân thì đột nhiên lại bị một bọn lính khác tới khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba, bị trói giải về nộp cho quan huyện Bình Lục, còn các người khác sợ hãi bỏ chạy trốn hết. Về tới huyện cha Dũng Lạc lại gặp cha Trương Văn Thi cũng đã được giải về nộp cho quan huyện Bình Lục. Thế là từ đây số phận của hai cha dính liền với nhau, cùng bị giam, bị tra khảo, cùng chết và cùng lãnh nhận triều thiên Tử Đạo trên thiên quốc cùng một ngày với nhau.

Tại huyện Bình Lục, quan huyện xử đối với hai cha rất tử tế. Quan truyền cho lính dọn cơm cho hai cha bằng mâm và chén bát của mình. Quan thấy cha Trương Văn Thi già yếu, quan hỏi lính cha có chăn mền không thì lính thưa là cha có chăn mền nhưng ông lý Pháp đã tịch thu tất cả của cha rồi. Quan nghe nói thì nóng giận quát lớn: “Bảo thằng lý Pháp phải trao trả lại cho cha”. Có lần quan huyện Bình Lục đã tâm sự với hai cha rằng: “Thưa hai Cụ, phép triều đình cấm đạo và giết các Cụ, chứ không phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này”.

Nghe quan thế nói, các cha chỉ mỉm cười. Mặc dù bị giam nhưng hai cha vẫn vui vẻ chuyện trò với mấy anh lính canh. Có người hỏi cha: “Các Cụ bị bắt mà sao các cụ nói chuyện vui vẻ thế, các Cụ không sợ chết à?” Cha Dũng Lạc vui vẻ trả lời: “Vua cấm đạo và Đức Cha Trời định cho tôi phải bị bắt. Tôi không sợ. Trái lại, tôi lại vui vì được chịu khó vì Chúa tôi thờ”.

Giữ hai cha ba ngày tại huyện, sau đó quan huyện Bình Lục tiễn hai cha xuống thuyền, đưa hai cha về Hà Nội nộp cho quan đốc tỉnh. Biết tin hai cha phải về Hà Nội, các tín hữu kéo nhau tới thương khóc từ giã hai cha rất đông. Nhiều tín hữu đã góp tiền và trình với Đức Cha Retord Liêu và Đức Cha cũng đồng ý để họ đưa tiền tới xin chuộc hai cha. Nhưng cha Dũng Lạc nghĩ rằng đây là lần thứ ba đã bị bắt, chắc là ý Chúa muốn như thế nên cả hai cha đã không đồng ý để giáo dân đem tiền tới xin chuộc hai cha. Lúc tiễn hai cha xuống thuyền, nhiều người đi theo gào khóc rất thảm thiết. Thấy vậy, quan huyện lấy làm lạ nói: “Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc than khóc quá như vậy?” Nghe quan huyện hỏi như thế, một bà cụ đứng gần đó đáp lại: “Bẩm quan, các cha dạy chúng tôi những điều tốt lành, không cờ bạc, rượu chè, dy vợ chồng phải thuận thảo, thủy chung với nhau như trong đạo lý răn dạy. Tại sao lại giết người lành như thế ?”

Bước xuống thuyền rồi, hai cha thấy dân chúng thương khóc quá sức như vậy thì hai cha xin quan nói mấy lời để an ủi và khích lệ mọi người hãy sống đạo tốt lánh hơn: Hãy yêu thương nhau và trung thành với đạo thánh Chúa. Không nên khóc lóc làm gì vì chỉ làm thêm đau khổ cho nhau mà thôi.

Con thuyền đưa hai cha đi Hà Nội, ngày 16 tháng 11 hai cha tới Hà Nội và được đưa ngay vào nhà giam để ngày hôm sau là ngày 17 tháng 11, các cha được đưa ra trước mặt các quan để bị thẩm vấn. Trong một lá thư cha Dũng Lạc viết cho Đức Cha Jeantet đã kể lại rằng: Ngày 17 tháng 11 quan đã nộp chúng con cho quan án để truyền lệnh bắt chúng con phải bước qua Thập Giá. Vì chúng con cương quyết không chịu bước qua nên sáu anh lính đã xông tối khiêng nhắc bổng chúng con lên đưa qua Thập Giá, cha Phêrô Thi đã ôm được Thập Giá và hôn kính. Còn con thì con co chân lên rất cao và nói với họ: “Hãy chặt chân tôi đi. Tôi rất vui lòng chứ đừng hy vọng tôi bỏ đạo”. Sau đó các quan hỏi con: “Tại sao đạo lại không cho phép thờ kính tổ tiên?” Con trả lời: “Nếu có ai chào cha mẹ khi các ngài đang ngủ, thì không kể là tôn kính, vì các ngài ngủ không biết gì. Cũng một lẽ ấy còn một mạnh mẽ hơn đối với những người đã chết.”

Ngày 19 tháng 11 các quan lại gọi chúng con ra tòa lần thứ hai để khuyên dụ và ép buộc chúng con bước qua Thập Giá. Lần này các quan bắt chúng con phải đeo gông nặng hơn. Tới ngày 21 tháng 11 thì họ lại thay gông bằng xiềng xích. Xiềng xích của cha Phêrô Thi nhẹ hơn xiềng xích của con. Con thương cha Phêrô Thi vì già yếu mà phải chịu nhiều cực hình quá. Nhiều lúc con ngồi suy nghĩ mà chảy nước mắt vì nhớ tới những anh em Thừa Sai đang phải trốn tránh để rao giảng Tin Mừng của Chúa.

Nhận được thư của cha Anrê Dũng Lạc, Đức Cha Jeantet vội biên mấy lời khích lệ và an ủi hai cha, khuyên hai cha vững lòng bền chí, can đảm chịu mọi sự khó. Đức Cha và mọi người đều sốt sắng cầu nguyện cho hai cha luôn xứng đáng là những chiến sĩ Đức Tin vững mạnh của Chúa. Được thư của Đức Cha, hai cha vui mừng và xúc động. Cha Dũng Lạc viết lại để cám ơn Đức Cha. Trong thư cha viết: “Chúng con vô cùng an ủi và xúc động chảy nước mắt khi đọc thư của Đức Cha. Chúng con thật lòng biết ơn vì nhờ Đức Cha và các vị Thừa Sai mà chúng con được biết Chúa. Chúng con không biết phải nói làm sao để diễn đạt lòng biết ơn sâu xa của chúng con. Trong nhà tù này rất khó khăn để viết thư cũng như để nhận thư. Xin Đức Cha hiểu cho lòng trung tín và hiếu thảo của chúng con. Xin Đức Cha cầu nguyện cho chúng con trung thành với Chúa và luôn sẵn lòng vui vẻ được chết vì Chúa. Lòng chúng con tin vững mạnh nơi Chúa như núi Thái.

Tình trạng ngồi tù kéo dài mãi, hai cha nóng lòng chờ đợi giờ phút được đổ máu ra để làm chứng nhân cho Chúa, mãi tới ngày 30 tháng 11, các quan cho gọi hai cha ra toà. Trước hết các quan khuyên dụ hai cha bước qua Thập Giá và bỏ đạo. Khuyên dụ mãi không xong, các quan bắt hai cha ký giấy nhận bản án. Sau khi các ngài ký nhận, quan đốc tỉnh nói với quan chánh án: “Bọn chúng bám vào tôn giáo đến nỗi điên khùng. Đạo gì mà làm cho con người mê mẩn đến như thế? Thật khó hiểu!” Nhiều lần bị tra khảo nhưng không bị đánh đập tàn nhẫn như những trường hợp khác, chỉ bị bọn lính tát một hai cái.

Ngày  mồng 1 tháng 11 năm 1839 là ngày lễ kính Các Thánh, cha Trân giả dạng người làm ruộng vào thăm hai cha trong tù. Cha Trân đưa Mình Thánh Chúa cho hai cha. Vừa thấy cha Trân, cha Dũng Lạc vui vẻ chào: “Xin chào bác! Tôi đợi bác thăm nuôi đây”. Sau đó cha Trân trao Mình Thánh Chúa cho cha Dũng Lạc. Hai người nói nhỏ với nhau ít điều rồi cha Trân vội vã rút lui. Cha Dũng Lạc chịu Mình Thánh Chúa rồi âm thầm trao cho cha Thi. Hai cha vui mừng tạ ơn Chúa vì Chúa đã thương tới thăm viếng các Ngài trong nhà tù và tăng sức mạnh để các Ngài thêm mạnh mẽ, can đảm tuyên xưng danh Chúa trước mặt vua quan.

Vài tuần lễ sau, các Ngài được lệnh tới gặp quan án. Quan chánh án đưa bản án do vua Minh Mạng châu phê để các Ngài ký nhận. Sau khi ký nhận bản án, cha Dũng Lạc trở về nhà giam vui vẻ, cao hứng làm một bài thơ diễn tả tâm sự gửi cho cha bạn là cha Thực. Bài thơ như sau:

Lạc rầy đã rõ chốn quân quan

Bút chép thơ này gửi thở than

Lòng nhớ bạn, vẫn còn vất vả

Dạ thương khách, chạy chữa yên hàn

Đông qua tiết lại thì xuân tới

Khổ trảm mai sau hưởng phúc an

Làm kẻ anh hùng chi quản khó

Nguyện xin cùng gặp chốn Thiên Đàng.” 

Sáng ngày 21 tháng 12 năm 1839, quan quân tới nhà giam công bố lệnh xử án và truyền lệnh ra pháp trường. Hai cha vui mừng tạ ơn Chúa. Các ngài hát mấy câu kinh tạ ơn “Te Deum” bằng Latin rồi chuẩn bị sẵn sàng theo đoàn quan quân tiến ra pháp trường lãnh án chém đầu để làm chứng nhân cho đạo thánh Chúa. Trên đường đi, các Ngài vui vẻ, nét mặt tươi vui hớn hở. Cha thánh Dũng Lạc chắp tay vừa đi vừa cầu nguyện. Tới nơi xử, các Ngài quỳ trên chiếc chiếu đã được các tín hữu đã trải sẵn. Người lý hình tiến lại nói nhỏ với cha: “Chúng tôi không biết các Thầy có tội gì. Chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên bắt chúng tôi phải làm. Xin các Thầy đừng chấp chúng tôi. Xin các Thầy cầu nguyện cho chúng tôi khi các Thầy về Trời”. Cha Dũng Lạc tươi cười nói với các anh: “Quan lớn đã truyền, các anh cứ thi hành”.

Sau đó hai ngài cầu nguyện ít phút rồi nghiêng đầu cho lý hình chém. Nhiều người đứng chứng kiến đã kể lại rằng họ đã nhìn thấy một con chim trắng to lớn hơn chim bồ câu bay lượn trên các ngài lúc các ngài bị hành quyết. Hôm đó là ngày 21 tháng 12 năm 1839 tại pháp trường cửa ô Cầu Giấy, Hà Nội, giáp đường lên tỉnh Tây Sơn. Thi hài cha thánh Dũng Lạc được đưa về an táng tại nhà bà Lý Qúy, gần Cầu Giấy, Hà Nội.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã tôn phong cha Dũng Lạc lên bậc Chân Phước cùng với cha thánh Phêrô Trương Văn Thi ngày 27 tháng 5 năm 1900, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng hai Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.

 

Tác giả Lm. Nguyễn Đức Việt Châu

 

Hãy Luôn Sống Kết Hiệp Với Chúa Giê-su Thánh Thể -

KINH RƯỚC LỄ THIÊNG LIÊNG 

Lạy Đức Chúa Giêsu, con tin thật Chúa con ngự trong Phép Mình Thánh, con kính mến Chúa con trên hết mọi sự, cùng ước ao chịu lấy Chúa con trong linh hồn con. Song le bởi vì bây giờ con chẳng có thể mà chịu Chúa con cho thật được, thì xin Chúa con ngự vào linh hồn con cách thiêng liêng vậy, chẳng khác gì như Chúa con đã ngự vào thật, thì con xin ẵm lấy cùng hợp làm một cùng Chúa con cho trọn, xin Chúa con chớ để cho con lìa bỏ Chúa con bao giờ. Amen. 

Spiritual Communion Prayer

My Jesus, I believe that you are present in the most Blessed Sacrament. I love You above all things and I desire to receive You into my soul. Since I cannot now receive You sacramentally, come at least spiritually into my heart. I embrace You as if You were already there, and unite myself wholly to You. Never permit me to be separated from You. Amen.

Prière de communion spirituelle 

Mon Jésus, je crois que vous êtes ici présent dans le Saint-Sacrement. Je vous aime par-dessus tout chose et je désire ardemment vous recevoir dans mon âme. Puisque je ne puis, à cette heure, vous recevoir sacramentellement, venez au moins spirituellement dans mon cœur. Comme si vous y étiez déjà présent, je vous adore et tout entier je m’unis à vous. Ne permettez pas que je me sépare jamais de vous. Amen.

 

Tìm Hiểu & Sống Thánh Lễ -

HÃY TRỞ LẠI VỚI THÁNH LỄ!

Tại sao Thánh lễ có tầm quan trọng quyết định như thế? Công đồng Vaticanô II dạy cách xác tín rằng Bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh đời sống Kitô hữu” – điều đó có nghĩa là: Kitô giáo đích thực phát xuất từ Thánh Thể và quy hướng về Thánh Thể... 

CÂU CHUYỆN SUY TƯ
HÃY TRỞ LẠI VỚI THÁNH LỄ!

Mười lăm tháng qua là thời gian khủng hoảng và nhiều gay go đối với đất nước chúng ta [Hoa Kì], và là một thử thách đặc biệt đối với người Công Giáo. Trong suốt giai đoạn COVID kinh khủng này, nhiều người trong chúng ta bị buộc ngưng tham dự Thánh lễ và Rước lễ. Thật vậy, vô số Thánh lễ và việc tôn sùng Thánh Thể được thực hiện trực tuyến, cám ơn Chúa vì điều này. Nhưng các tín hữu đã biết tận xương tủy rằng sự tham dự trực tuyến như thế tuyệt đối không thay thế cho việc tham dự thật. Bây giờ các cửa nhà thờ đang bắt đầu mở rộng, tôi muốn thúc giục mọi tín hữu đọc những lời này: Hãy trở lại với Thánh lễ!

Tại sao Thánh lễ có tầm quan trọng quyết định như thế? Công đồng Vaticanô II dạy cách xác tín rằng Bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh đời sống Kitô hữu” – điều đó có nghĩa là: Kitô giáo đích thực phát xuất từ Thánh Thể và quy hướng về Thánh Thể. Thánh Thể là khởi nguyên và cùng tận của đời sống tâm linh, vừa là con đường vừa là cùng đích của người môn đệ Chúa Kitô. Các Giáo phụ đã mạnh mẽ dạy rằng Bí tích Thánh Thể là lương thực ban sự sống đời đời. Các ngài muốn nói rằng theo mức độ chúng ta tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giêsu, chúng ta được chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống với Ngài ở đời sau. Thánh Tôma Aquinô đã nói rằng tất cả các Bí tích khác chứa đựng quyền năng của Chúa Kitô (virtus Christi) còn Bí tích Thánh Thể chứa đựng chính Chúa Kitô (ispe Christus) – và điều này giúp giải thích lí do thánh Tôma không thể dâng Thánh lễ mà không đầm đìa nước mắt. Chính nơi Thánh Lễ mà chúng ta được ban đặc ân lãnh nhận tặng phẩm có một không hai này. Chính nơi Thánh Lễ chúng ta nhận được thứ lương thực không thể thiếu. Không có Thánh Thể, tâm linh chúng ta chết đói.

Nếu tôi mở rộng phạm vi một chút, tôi xin nhắc lại rằng, cách chung, Thánh Lễ là nơi dành riêng để gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Trong Phụng vụ lời Chúa, chúng ta không đơn thuần nghe những lời của con người do các thiên tài thi ca soạn ra, mà đúng hơn là lời của Ngôi Lời. Trong các bài đọc, đặc biệt bài Tin Mừng, chính Chúa Kitô nói với chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta thưa lại với Người, bước vào bên trong cuộc đối thoại với Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Rồi tiếp đến, trong Phụng vụ Thánh Thể, cũng chính Chúa Giêsu, Đấng đã mở lòng với chúng ta, hiến dâng Mình và Máu của Người cho chúng ta hưởng dùng. Trước khi lên thiên đàng, hoàn toàn không thể có sự hiệp thông nào khác thân tình hơn với Chúa Phục Sinh.

Tôi nhận thấy trong thời COVID này nhiều người Công Giáo dần dần quen với sự dễ chịu khi tham dự Thánh Lễ trực tuyến bởi được thoải mái trong nhà riêng, không phải phiền phức ở bãi đậu xe đông đúc, con nít khóc la, hàng ghế chật ních. Nhưng một điểm then chốt của Thánh Lễ chính là chúng ta đến với nhau để làm thành một cộng đoàn. Khi chúng ta nói, cầu nguyện, hát, và xướng đáp với nhau, chúng ta nhận ra căn tính của mình là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu. Trong lúc cử hành phụng vụ, linh mục thực hiện chức năng với tư cách của Chúa Kitô (in persona Christi), còn những người đã được rửa tội khi tham dự nối kết chính mình một cách biểu trưng với Chúa Kitô là đầu và cùng nhau tiến dâng sự thờ phượng lên Chúa Cha. Có một sự tương tác giữa linh mục và giáo dân trong Thánh lễ rất đỗi quan trọng mặc dù thường không được chú ý tới. Ngay trước lời nguyện trên lễ vật, linh mục nói: “Anh chị em hãy cầu nguyện, để hi lễ của tôi cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận”, và giáo dân đáp lại: “Xin Chúa nhận hi lễ bởi tay cha, để ca tụng tôn vinh danh Chúa, và mưu ích cho chúng ta cùng toàn thể Hội Thánh Người”. Ngay lúc đó, đầu và các chi thể kết nối với nhau một cách có ý thức để làm nên một hi lễ hoàn hảo dâng tiến Chúa Cha. Vấn đề là điều này không thể xảy ra khi chúng ta bị phân tán trong nhà riêng của mình và ngồi trước màn hình máy tính.

Nếu tôi nói về tầm quan trọng của Thánh lễ bằng một hình thức tiêu cực hơn, Hội Thánh đã dạy cách vững chắc rằng người Công Giáo đã được rửa tội có bổn phận đạo đức phải dự lễ Chúa Nhật, và việc cố ý bỏ lễ, không có lí do chính đáng, là tội trọng. Tôi hiểu rằng những lời này làm cho nhiều người ngày nay khó chịu, nhưng nó không có ý như vậy, bởi vì nó hoàn toàn phù hợp với mọi điều chúng ta đã nói về Thánh lễ cho tới điểm này. Thật vậy, nếu Phụng vụ Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, là cuộc gặp gỡ đặc thù với Chúa Giêsu Kitô, là thời điểm Thân Thể Mầu Nhiệm tự biểu lộ trọn vẹn nhất, là đón nhận Bánh Bởi Trời – thì, nói theo nghĩa thiêng liêng, chúng ta tự đặt mình vào mối nguy hại vô cùng lớn khi chủ động tránh xa Thánh lễ. Như một bác sĩ lưu ý bạn đang gây hại cho cuộc sống của mình do ăn các loại thức ăn nhiều chất béo, hút thuốc, và không chịu tập thể dục, cũng vậy vị bác sĩ linh hồn sẽ nói với bạn rằng việc bỏ tham dự Thánh lễ đang làm tổn hại sức khỏe tâm linh của bạn. Dĩ nhiên, như tôi nhắc đến ở trên, luật Hội Thánh vẫn luôn là một cá nhân có thể quyết định không đi Lễ vì những lí do chính đáng – và dĩ nhiên điều này vẫn còn được áp dụng trong những ngày đại dịch đang dần dịu đi.

Nhưng xin hãy trở lại với Thánh lễ! Tôi xin đề nghị bạn dẫn theo một người, là người đã vắng quá lâu hoặc có thể đã chìm sâu trong sự thoải mái suốt thời Covid. Hãy để cho nỗi khao khát Thánh Thể của bạn đánh thức thôi thúc truyền giáo trong bạn. Hãy rước những người từ khắp các nẻo đường lớn nhỏ; hãy mời các đồng nghiệp và các thành viên trong gia đình bạn; hãy gọi các trẻ em dậy vào sáng Chúa Nhật; hãy tắt máy tính. Hãy trở lại với Thánh lễ!

Tác giả: Đức cha Robert Barron

Việt Tâm chuyên ngữ từ wordonfire.org (09.6.2021)

 

DIOCESAN NEWS -

WHY DO WE HAVE AN OBLIGATION TO ATTEND MASS?-I

16 April 2021

A Catechesis on the Third Commandment in Light of the Resurrection by Father Andrew Heaslip, Diocesan Director of Religious Education, Diocesan Coordinator of Digital Media, Director of the TV Mass for the Homebound.

In his press release issued on Wednesday of Holy Week restoring the Sunday and holy day Mass obligation, Bishop Conley mentioned that the Southern Nebraska Register would be publishing a catechetical series on this obligation.

In my last article on livestreaming the Mass, I attempted to share my personal, and to some extent, catechetical reflections on why livestreaming the Mass is a blessing, albeit an awkward one, and even more why it is necessarily more valuable to be physically and spiritually present at the Mass whenever it is available.

In this article I’d like to shift from those personal and partly catechetical reflections to a catechesis specifically on the third commandment in light of the Resurrection of Jesus because it is here where we will begin to understand the context of why there is a Sunday Mass obligation in the first place.

The goal of this catechesis, then, is to understand the meaning of the third commandment in the Old Covenant, in order to clearly see how its obligatory nature both continues and is fulfilled in the New Covenant by the practice of keeping holy the Lord’s Day, that is, the day on which the Lord Jesus rose from the dead.

 

The Third Commandment

In the book of Exodus, we learn that God revealed to the people of Israel on Mt. Sinai the commandment, “Remember the sabbath day, to keep it holy. Six days you shall labor, and do all your work; but the seventh day is a sabbath to the LORD your God; in it you shall not do any work… for in six days the LORD made heaven and earth, the sea, and all that is in them, and rested the seventh day; therefore the LORD blessed the sabbath day and hallowed it” (20:8-11).

We see in this text that the third commandment is deeply tied to the six days of creation. In fact, the word sabbath (sabbath) means the seventh day of the week and a day of rest; it is derived from the Hebrew word sabbath which means “to cease or to rest.” The idea here is that the Sabbath is the day on which God ceased his work of creation in order to bring rest and blessing to the seventh day. Hence, in the Old Covenant, the observance of the Sabbath entailed, among other things, remembrance of the Lord’s work of creation and rest from work and manual labor.

Moreover, like all of the Ten Commandments, the third commandment too was given in the context of God’s work of liberating or redeeming the people of Israel from slavery.

The Decalogue (Ten Commandments) begins with the words, “I am the LORD your God, who brought you out of the land of Egypt, out of the house of bondage” (Ex 20:2). Likewise, the expression of the third commandment in Deuteronomy adds, “You shall remember that you were a slave in the land of Egypt, and the LORD your God brought you out thence with a mighty hand and an outstretched arm; therefore the LORD your God commanded you to keep the sabbath day” (15:5).

We see here that the third commandment is deeply tied also to God’s work of redemption or liberation from slavery, that is, when He freed his people from Egypt and formed a covenant relationship with them on Mt. Sinai. Hence, in the Old Covenant the obligation of remembrance “You shall remember” includes God’s work not only of creation but also of redemption.

In the third commandment, then, we not only learn of the sacred importance of the Sabbath and the requirement or obligation to keep it holy through remembrance and rest but also discover the deepest reasons for this obligation: the Sabbath is directly connected to the blessing and holiness of the Lord’s work of creation and to the mighty power of His liberating work of redemption.

 

Sabbath to Sunday

The first question that ordinarily arises in view of the third commandment to keep holy the Sabbat (that is, the seventh day, Saturday) is why do Christians observe this commandment not on Saturday but on Sunday? Indeed, among the most traditional enumerations of the Commandments in the Church we find the third Commandment expressed, “Remember to keep holy the Lord’s Day.”

In apostolic times we hear this same reference; for example, in the book of Revelation, a book with profound liturgical undertones, St. John says, “I was in the Spirit on the Lord’s day...” (1:10). Likewise, one of John’s disciples, St. Ignatius of Antioch who died around 108 AD says, “those who lived according to the old order of things have come to a new hope, no longer keeping the sabbath, but the Lord’s Day.”

Also, St. Justin Martyr witnessed to this distinctive and ancient Christian practice around the year 155 AD when he wrote, “We all gather on the day of the sun, for it is the first day as opposed to the seventh day.” What is clear from these and other ancient accounts is that the movement from Sabbath to Sunday, the Lord’s day, was a distinctive characteristic of the early Christian communities from the beginning. 

 

The Resurrection

This radical shift in religious practice should make us pause because in it there is a profound witness to the Resurrection of Jesus, which is the singular reason it occurred. In first century Judaism there was enormous importance attached to the Sabbath and its observance; we see references to this, for example, throughout first century Jewish texts and even in the Gospels themselves. Hence, “only an event of extraordinary impact could have led to the abandonment of the Sabbath and its replacement by the first day of the week” (Ratzinger, Jesus of Nazareth II).

The extraordinary historical event was the Resurrection of Jesus from the dead on the third day after his crucifixion, that is, at an unknown moment on the first day of the week, Sunday. Only something this remarkable could have brought about such a change in the deeply rooted religious culture surrounding the Sabbath. This change is one of the most convincing arguments from a historical perspective that something astonishing must have occurred at the beginnings of Christianity. 

 

New Creation and Redemption

This event, the Resurrection, is the reason why Christians observe Sunday instead of the Sabbath. Nevertheless, the deepest meaning of the Sabbath and the commandment to keep it holy is in no way abandoned by Christians but rather fulfilled.

We saw that the Sabbath and the biblical expressions of the third commandment were directly tied to the first creation and to Israel’s redemption from Egypt. These events have been fulfilled in Jesus Christ. The Resurrection of Jesus from the dead on the first day of the week, in fact, begins the New Creation. Indeed, the creation of the visible world and of humanity find their meaning and summit in this new creation in Christ, or St. Paul says, “if any one is in Christ, he is a new creation; the old has passed away, behold, the new has come” (2 Cor 5:17).

Likewise, the paschal mystery of Jesus’ suffering, death, and Resurrection has brought Redemption to the human race. God’s work of liberating His people from slavery, Egypt, and pharaoh has come to fulfillment in His Son, Jesus who has redeemed us from sin, the world, and Satan.

Or, again, as St. Paul says, “In him we have redemption through his blood, the forgiveness of our trespasses, according to the riches of his grace which he lavished upon us” (Eph 1:7-8). Thus, the ancient meaning of the Sabbath has come to its culmination in the Resurrection of Christ on the first day of the week. 

 

Remembrance and Rest

Likewise the obligations of the third commandment—to remember and to rest—continue in the New Covenant, but now as a living remembrance, especially in the eucharistic liturgy, of God’s supreme work of redemption and of making us a new creation in Christ, and now as a rest not only from work and servile labor but also as a rest which looks forward in hope to definitively “entering into God’s rest” in eternal life (cf. Heb 4:1-11).

This catechesis on the third commandment in light of the Resurrection hopefully helps us to see why there is a perpetual obligation of remembrance and rest on the Lord’s Day.

Likewise, I hope it helps us begin to understand why even when there is a legitimate dispensation from being present at the eucharistic liturgy or even when one is rightly excused from Mass because he or she is physically or morally prevented from attending, the obligations on Sunday of remembering of the Lord’s redeeming work and of rest that looks toward the definitive rest of eternal life can never be dispensed—the third commandment and its evangelical fulfillment come from God.

In the next catechesis on the Sunday and holy day Mass obligation I hope to continue this consideration on remembrance in view of the first precept of the Church: “You shall attend Mass on Sundays and holy days of obligation.”

This precept, which though at times can be dispensed as we all experienced during COVID-19, is a grave obligation that requires the faithful to participate in the Eucharistic liturgy because the liturgy is the supreme living remembrance which makes present Jesus’ redeeming work of the cross and Resurrection and, indeed, is carried out according to Jesus’ command, “Do this in remembrance of me” (Lk 22:19).

 

WHY DO WE HAVE AN OBLIGATION TO ATTEND MASS?-II 

07 May 2021

A catechesis on the First Precept of the Church in light of Jesus’ institution of the Eucharist by Father Andrew Heaslip, Diocesan Director of Religious Education, Diocesan Coordinator of Digital Media, Director of the TV Mass for the Homebound.

In our last catechesis on keeping holy the Lord’s day and the Resurrection, we saw how the third commandment is deeply tied to creation and redemption, and how the Old Testament obligations of remembrance and rest on the Sabbath are fulfilled in Jesus Christ who brings about the new creation and the redemption of the human race through his cross and in his resurrection on the third day, Sunday.

In this catechesis I would like to draw from our previous reflections and focus on the first precept of the Church in view of Jesus’ institution of the Eucharist when he said, “Do this in remembrance of me” (Lk 22:19). The goal of this catechesis is to help us understand why there is a grave obligation to attend Mass on Sundays and Holy days and, even more, why this obligation is something we should freely want to fulfill whenever it is available. 

 

The First Precept of the Church

The first precept of the Church is, “You shall attend Mass on Sundays and holy days of obligation” (CCC 2042). This precept requires the faithful to participate, that is, to be physically and consciously present at the Eucharistic liturgy when the Christian community gathers together for Sundays and Holy days of obligation. This precept is distinct from but deeply related to the third commandment, as well as other Jewish feasts of remembrance in the Old Covenant, both of which Jesus brought to fulfillment in the New Covenant.

 

Sunday Obligation

We saw in our last catechesis that one of the fundamental obligations of the third commandment is remembering God’s work of creation and redemption: “Remember the sabbath day... for in six days the LORD made heaven and earth... and rested the seventh day” (Ex 20:8-11) and “You shall remember that you were a slave in the land of Egypt, and the LORD your God brought you out thence with a mighty hand…” (Deut 15:5). We’ve already seen how this commandment continues and is fulfilled in the passion and, especially, the resurrection of Jesus on Sunday.

The point I would like to make here is: the precept to participate in the Eucharistic liturgy on Sunday, while distinct from the third commandment, realizes the command of remembrance in the fullest way possible because it is the supreme living remembrance of Jesus’ redeeming work on the cross and in the resurrection. The Mass makes his sacrifice for sins and his risen body actually present – living – and is carried out according to his words, “Do this in remembrance of me” (Lk 22:19). Hence, the part of the first precept of the Church that pertains to Mass on Sunday flows directly from the third commandment’s obligation to remember. 

 

Holy Days of Obligation

What about other holy days of obligation? In addition to the weekly observance of the Sabbath, now fulfilled on the Lord’s day, Sunday, the people of Israel also celebrated many other feasts of remembrance. They occurred on fixed days and seasons of the year and included specific liturgical practices. For example, the great Jewish feast of Passover occurred on the 14th of the first month of the Jewish calendar and obliged the Israelites to celebrate it with specific ceremonies such as families coming together to partake of a Passover lamb. God and his chosen leader, Moses, instituted this feast and its specific liturgical practices, again, for the purpose of remembrance: “that all the days of your life you may remember the day when you came out of the land of Egypt” (Deut 16:3).

Similarly, the holy days of obligation in the New Covenant such as Christmas, Mary the Mother of God, the Ascension, All Saints Day, and the Immaculate Conception occur on fixed days or seasons and oblige God’s people to come together in the liturgy in order to celebrate God’s mighty works which have come to fulfillment in the mysteries of the Christian faith. Likewise, God’s appointed leaders, the successors of the apostles, instituted these holy days of obligation as a means of commemorating (remembering and celebrating) the great mysteries of faith and salvation from which all the family of God benefits. Hence, holy days of obligation are occasions of grace and remembrance; they have a certain connection with and precedent in the feasts of the Old Covenant, yet are ultimately rooted in the life and mysteries of Jesus and the authority of his Church, both of which are a fulfillment of the Old Covenant.

The first precept of the Church, then, has its obligatory character and can be dispensed because it is based in the pastoral authority of the pope and bishops who are the successors of Peter and the apostles who, in turn, were commanded by Jesus to celebrate the Eucharist, “...in remembrance of me.” This is, among other reasons, why there is a grave obligation to attend Mass on Sundays and holy days, and why it can be dispensed for serious reasons such as our recent global pandemic. 

 

The Institution of the Eucharist

The first precept of the Church, moreover, has its deepest reason in the gift that Jesus gave on the night he was betrayed, when he instituted the Eucharist. It is in this gift and the prayerful words and actions surrounding this gift that we discover why we should long for and freely want to participate in the Eucharist. What is this gift? It is the gift of Jesus himself.

When He instituted the Eucharist before His passion, Jesus established the perpetual memorial of his suffering, death, and resurrection which has redeemed the world. This truth is contained in the very words that Jesus used at the last supper. When he took bread, he said, “This is my body which is given for you” (Lk 22:19) and when he took the wine, he said, “this is my blood of the covenant, which is poured out for many for the forgiveness of sins” (Mt 26:28).

An important point to realize here is that these actions and words of Jesus anticipated the sacrifice of his body and the pouring out of his blood on the cross. When he said to the apostles, “do this in remembrance of me,” what they were to remember was not simply the last supper but the crucifixion, its meaning, and the resurrection. The words “given for you” and “poured out for many” which the apostles heard with their ears at the last supper took on meaning only after Jesus’ ordeal of Roman crucifixion when he gave his body to be nailed to the cross unto death, and when the solider lanced his side causing his blood to pour out.

The command of remembrance, however, included not merely the recollection of the physical details of the suffering and death of Jesus but also, and especially, the meaning of them. The cross manifests Jesus’ love “to the end” (Jn 13:1); it is accomplished “for the forgiveness of sins,” “for our sins” (1 Cor 15:3); and it is the beginning of a “new covenant,” that is, a new and living relationship with God in his Son, Jesus. This gift of the Eucharist which Jesus instituted at the last supper and which the apostles were to do in remembrance of him took on its full meaning for them only after the crucifixion and resurrection; and it took them and the early disciples time to awaken to this full meaning. 

 

Remembrance

The scriptural term remembrance, in fact, implies this type of awakening, that is, a realization of the reality of God and the work he has done (see for example, Num 10:10). We see this awakening to God’s work in the accounts of Jesus’ appearances to his disciples after the resurrection. For example, on the road to Emmaus, Jesus converses with two of his disciples who do not realize that it is him. It is only after he opens the scriptures to them about the meaning of the Messiah’s suffering and glory and, most of all, when he takes bread, blesses it, breaks it, and gives it—the same actions he performed at the last supper—that they finally realize or awaken to the reality that it is him. At that moment he vanished from their sight. Yet, he was helping them to realize that he is, and is going to be, present to them in a new way, that is, in the breaking of the bread which is the most ancient name for the Eucharistic liturgy. Indeed, after realizing it was the Lord, those two disciples told the apostles that, “he was made known to them in the breaking of the bread” (Lk 24:35).

It is with this full meaning of remembrance, which includes not only a recollection but also a realization of the living reality, that the apostles and early Church celebrated the Eucharist (see 1 Cor 11:23-27). So, it is with the Eucharistic liturgy in every age: when the Mass is celebrated it is done in remembrance of Christ whose passion and resurrection are not only recalled but also made present.

When we assemble together for the Mass it is truly a time when the Lord awakens us anew to his presence and his work of salvation. Indeed, nothing brings us closer to Jesus and to one another than the celebration of the Eucharist. It is there where we encounter his love to the end, it is there where we are renewed in the new and everlasting covenant relationship with God, and it is there where we can receive the crucified and now Risen Lord. These are the deepest reasons why there is a precept to attend Mass on Sundays and holy days of obligation and they are why we should long to realize this precept.

I hope that this two-part catechesis on the Sunday and holy day Mass obligation has been helpful not only for understanding but also for inspiration. It was written in anticipation of and preparation for May 23, the Solemnity of Pentecost, when this obligation will be restored in the Lincoln Diocese. May the Holy Spirit draw us together anew into Christ Jesus at the Eucharistic liturgy.

 

 

Hãy Đến Với Thánh Lễ Để Lãnh Nhận Nguồn Ơn Cứu Độ -

KHAO KHÁT THÁNH LỄ

Là người Công giáo có trách nhiệm, ai cũng biết rằng mình có bổn phận tham dự thánh lễ ngày Chúa  nhật. Thậm chí lề luật còn quy định, nếu bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng, bị xem là phạm tội trọng.

Nhưng vì quá nhấn mạnh đến khía cạnh tội, lề luật, trách nhiệm, một số người đi lễ Chúa nhật chỉ như việc làm đối phó, đi cho xong bổn phận, gọi là dự lễ nhưng thực tế hoàn toàn không có cái hồn của việc dự lễ.

Trong khi đó, việc tham dự thánh lễ Chúa nhật còn một khía cạnh khác tích cựac hơn nhiều, hạnh phúc hơn nhiều, mạnh mẽ hơn nhiều, đó là: Thánh lễ là ân huệ Chúa ban, và tham dự thánh lễ là đón nhận ân huệ, đón nhận quà tặng vô giá từ Trời.

Ân huệ này, món quà này thật đặc biệt vì chính Chúa Giêsu trao ban nó cho chúng ta trước khi Người lìa bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha.

Nhớ năm ngoái, vào đúng dịp tuần Thánh và Phục sinh, lại là thời gian đỉnh cao của dịch wuhan, chúng ta không thể tham dự thánh lễ. Nhưng nhờ đó, nó trở thành cơ hội tốt để nhiều người còn giữ được tâm hồn sốt sắng, nhìn lại giá trị của món quà vô giá mà bao nhiêu năm tháng Chúa ban cho mình tận hưởng.

Mất những gì đã từng có, vuột khỏi tầm tay những gì đã từng nắm trong tay, ta mới thật sự quý điều mình đã không còn.

Chỉ có như thế mới là cơ hội giúp ta quý trọng mọi thứ Chúa trao ban, nâng niu món quà của Chúa, thèm khát ân huệ vô giá của Chúa.

Rồi khoảng thời gian không thể đến nhà thờ tham dự thánh lễ cũng qua đi. Sự thèm khát thánh lễ có làm nhiều người quý trọng thánh lễ hơn, dự lễ sốt sắng hơn…

Nhưng rồi mọi sự lại đâu vào đấy. Bởi khi nhà thờ được mở cửa liên tục, việc đến nhà thờ dễ dàng hơn, trừ một số người giữ được tâm hồn thực sự hướng về Chúa, đại bộ phận người còn lại, lại tiếp tục cho thấy thái độ hững hờ, dự lễ vì thói quen, dự lễ vì sợ luật buộc, dự lễ vì chẳng lẽ mang tiếng mình là người Công giáo lại chẳng đến nhà thờ…

Nhiều biểu hiện của nhiều người cho thấy, họ dự lễ cho có, cho rồi, chỉ là dự được chăng hay chớ mà thôi…

Ước mong từng người Công giáo, khi đến nhà thờ tham dự chính hy tế tuyệt đối của Chúa Kitô, sẽ tham dự bằng tình yêu, bằng sự chân tình, bằng thái độ nhiệt tình của mình với mọi nỗi khao khát được đến nhà Chúa, được cùng Chúa hiến tế đời mình, dâng lên Chúa con người, đời sống, lo toan và mọi lao nhọc của bản thân, của gia đình và của mọi người thân…

Ước mong mỗi khi đến nhà thờ, mọi người sẽ thấy mình hạnh phúc được cùng Chúa Kitô dâng lên sự tôn thờ dành cho Chúa Cha nhờ ơn thánh hóa của Chúa Thánh Thần, được là người mang ơn cứu độ và gieo vãi ơn cứu độ của Chúa cho chính mình và cho trần thế.

Ước mong khi đến nhà thờ, mọi người mang theo cơn khát được gặp Chúa, gặp anh em mình để càng ngày càng hiệp thông với Chúa và với nhau chặt chẽ, mạnh mẽ hơn.

Ngoài những người còn xem thường việc tham dự hy tế của Chúa trong từng thánh lễ, chúng ta tin tưởng, với lòng yêu mến chân thành của tất cả những ai thiện chí, ơn Chúa, Đấng yêu thương chúng ta, sẽ làm cho đại dịch sớm qua đi, để từng người, mỗi lần lên đền thánh Chúa, sẽ cùng nhau gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ nhau trong hạnh phúc, tin yêu và hy vọng càng lúc càng lớn hơn, dạt dào hơn.

Còn giờ đây, chúng ta hãy để cho cõi lòng mình vang vọng lời Thánh vịnh 41:

Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa. Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống”.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

 

LỜI CHÚA HÀNG TUẦN

Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam - B -

TIN MỪNG: Mc 13,24-32.

“Thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.”

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô:

Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời. Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. Khi cành nó mềm ra và trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”. Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. Còn về ngày hay giờ thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Người Con cũng không. Chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su” (x. Mc 13,1-37). Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giê-su nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa” tức là ngày tận thế. Khi đó sẽ có những cơn bách hại xảy ra, trời đất cũ sẽ bị rung chuyển và biến đổi thành “Trời Mới Đất Mới” (x Kh 21,1), trước khi Con Người đến trong đám mây.

 

A. GỢI Ý:

1. “Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.” Bà mẹ và bảy anh em đã tự nguyện chấp nhận khổ đau và cái chết để thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Họ xác tín rằng một khi họ hết mực trung thành với Lề luật của Thiên Chúa, Đấng ban cho họ “thần khí và sự sống”, thì Người sẽ ban cho họ sự sống bất diệt. Niềm tin vào sự phục sinh là sức mạnh giúp họ vượt thắng cả cái chết. Họ xác tín rằng cuộc sống trong thời gian này chẳng đáng là gì so với cuộc sống vĩnh cửu. Tinh thần của các Thánh Tử đạo Việt Nam có là nguồn sức mạnh giúp tôi hướng về sự sống đời sau, bằng cách vượt thắng những cám dỗ hưởng thụ, biết hy sinh hãm mình để tích lũy nhân đức trong cuộc sống thường nhật.

2. “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” Qua và nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy Người yêu thương nhân loại bằng một tình yêu vô điều kiện và vững chắc đến nỗi không có bất cứ ai hay sức mạnh nào có thể lay chuyển. Các thánh tử đạo đã cảm nhận cách sâu sắc tình yêu Thiên Chúa dành cho các Người đến nỗi chấp nhận cái chết để minh chứng cho sức mạnh của tình yêu đó. Tôi có mạnh mẽ xác tín rằng Đức Kitô đã chết vì yêu thương tôi, đến nỗi không có gì có thể chia cắt tình yêu của Người dành cho tôi? Tình yêu vô vị lợi của Thiên Chúa thể hiện nơi cái chết và sự sống lại của Đức Kitô có là động lực thúc đẩy tôi yêu thương anh chị em mình hơn?

3. “Được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” Điều kiện để trở thành môn đệ Đức Giêsu là từ bỏ ý riêng và chấp nhận mọi sự xảy đến trong đời mình với tinh thần tin-cậy-mến, đến nỗi sẵn sàng “liều mất mạng sống” để làm chứng cho Chúa Kitô, với niềm xác tín rằng “sẽ cứu được mạng sống ấy” trong ngày Đức Kitô quang lâm. Tôi có dám chấp nhận từ bỏ ý riêng để xứng với tư cách làm môn đệ Đức Giêsu? Tôi đang tìm cách làm vinh danh Người hay tìm vinh danh tôi? Tôi có sẵn lòng chấp nhận thiệt thòi hiện tại để được kho tàng vĩnh cửu ở trên Trời?

 

B. SUY NIỆM:

1. Ngày tận thế chắc chắn sẽ đến:

Tin mừng Mác-cô hôm nay nói về ngày tận thế: Hôm ấy các môn đồ chỉ cho Đức Giê-su thấy cảnh huy hoàng của Ðền Thờ khi được ánh sáng mặt trời chiếu vào! Nhưng Đức Giê-su đã tiên báo cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và Đền Thờ sẽ bị phá hủy không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, vì dân Giêrusalem đã từ chối đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm.

Ðức Giê-su đã dùng những hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung trong các sách ngôn sứ để diễn tả cảnh tàn phá của Giêrusalem. Từ đó, Người đề cập đến ngày cùng tận của thế giới. Nhưng lời của Đức Giê-su được các thánh sử ghi lại sau khi Ðền Thờ đã bị sụp đổ và Hội Thánh bị bách hại khắp nơi. Qua Lời Chúa hôm nay, Mác-cô muốn trình bày các điều sau:

- Một là các hiện tượng trời đất như mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay chuyển… là điềm báo Chúa đến trong ngày tận thế.

- Hai là mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống… cho thấy vũ trụ này sẽ quay trở lại lúc khởi nguyên hỗn mang khi chưa có ánh sáng. Và như thế, ngày tận thế là lúc vũ trụ sẽ biến mất để cho “trời mới và đất mới” xuất hiện.

- Ba là người ta sẽ thấy “Con Người đến trong đám mây”. Con Người chính là Ðức Giê-su Cứu thế. Hình ảnh mây trời nhấn mạnh tính cách “hiển linh” của việc Người đến. Và như vậy “ngày của Chúa” sẽ trở thành ngày của Thiên Chúa đến “trong” và “nhờ” Con Người là Đức Giê-su.

- Bốn là Vua Ki-tô sẽ sai các thiên thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, để đưa họ vào hưởng vinh quang của Người trên trời.



2. Khi nào điều ấy xảy ra?

Đây là thắc mắc của mọi thế hệ loài người. Theo Tin mừng Mác-cô: Ðức Giê-su dạy các môn đệ phải tiên liệu: Khi thấy các điềm kia xảy ra, thì hãy biết rằng “Con Người đã đến gần bên cửa” (x Mc 13: 28-29).

Các điềm báo về ngày tận thế như: Mùa hè ám chỉ thời kỳ tận thế, các chi tiết khác như: Ðền thờ bị tàn phá, chiến tranh lọan lạc, các Ki-tô giả xuất hiện, niềm tin trở nên nguội lạnh, các tầng trời bị lay chuyển v.v... cho thấy tính không bền vững của vũ trụ vật chất.

Nghe lời Chúa hôm nay, nhiều người đã lầm tưởng ngày tận thế sắp đến. Nhưng ngay sau đó Đức Giê-su đã khẳng định: “Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được... cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha” (Mc 13,32).

Thực ra, với bản tính Thiên Chúa, Đức Giê-su ngang hàng với Chúa Cha, nên cũng biết rõ ngày tận thế. Nhưng với bản tính lòai người thì cũng như chúng ta, Người không biết rõ đó là ngày nào.



3. Chúng ta phải làm gì?

- Không nên hỏang sợ nhưng hãy hy vọng chờ đón Chúa đến: Đức Giê-su báo trước sẽ có ngày tận thế, nhưng lại dạy môn đệ không nên hoảng sợ. Người đến để phán xét mọi người, nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2 Tm 4,8), thì Người sẽ là Đấng Cứu Độ và là vinh quang của họ: “Người sẽ sai các thiên thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô” (Tt 2,13). Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ đúng đắn nhất của các môn đệ là: “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, trong niềm mong chờ, vì Chúa sẽ đến bất ngờ như Người đã nói: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
Chuẩn bị cho giờ chết của mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai: Người Ki-tô hữu chỉ có thể “đứng vững trước mặt Con Người” khi biết thanh luyện tội lỗi, tránh xa sự dữ và các thói hư, nhất là thói ích kỷ, tham lam…, và góp phần xây dựng một thế giới mới yêu thương, trong đó mọi người luôn quan tâm, cảm thông và chia sẻ phục vụ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cho gia đình, cộng đòan và môi trường sống ngày một tốt đẹp hơn.
Cần ý thức tính tập thể của ơn cứu độ: Đường về trời không dành riêng cho từng người, nhưng là con đường chung cho hết mọi người. Trong ngày phán xét, Đức Ki-tô sẽ tái lâm xét xử nhân lọai dựa trên tiêu chuẩn thực thi bác ái chia sẻ và phục vụ tha nhân. Ai sống trong yêu thương, người đó sẽ được sống lại và hưởng hạnh phúc trường sinh, còn kẻ “ghét anh em chính là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15) cũng sống lại để chịu hình phạt “khóc lóc và nghiến răng” (x Mt 25,31-46). Còn “Ai làm cho người ta nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12,3).
Ma-ra-na-tha: Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến: Các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai đã mong ước ngày trở lại của Chúa qua lời cầu nguyện: “Ma-ra-na-tha - Lay Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,20). Trong Thánh lễ, sau khi truyền phép, các tín hữu chúng ta cũng dâng lời xin: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Mỗi tín hữu chúng ta cần năng hồi tâm sám hối và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến bằng việc làm các việc bác ái chia sẻ phục vụ cho tha nhân nhằm “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”, kèm theo một lời nguyện như sau: “Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến“.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho chúng con một quả tim mới và một thần trí mới để chúng con sẵn sàng góp phần xây dựng Hội Thánh và phục vụ Chúa trong mọi người chung quanh ngay từ hôm nay. Xin cho chúng con sẵn lòng chấp nhận các đau khổ trái ý xảy đến để thành tâm sám hối tội lỗi, khử trừ thói hư và tích cực góp phần làm cho gia đình, cộng đoàn, xã hội… trở nên công bình yêu thương và bình an hoan lạc hơn, hầu đón chờ Chúa sẽ tái lâm và biến trần gian trở thành một “Trời Mới Đất Mới” vào ngày tận thế. Amen.

 

GOSPEL (Mk 13:24-32):

Jesus said to his disciples:
“In those days after that tribulation
the sun will be darkened,
and the moon will not give its light,
and the stars will be falling from the sky,
and the powers in the heavens will be shaken.

“And then they will see “the Son of Man coming in the clouds”
with great power and glory,
and then he will send out the angels
and gather his elect from the four winds,
from the end of the earth to the end of the sky.

“Learn a lesson from the fig tree.
When its branch becomes tender and sprouts leaves,
you know that summer is near.
In the same way, when you see these things happening,
know that he is near, at the gates. 
Amen, I say to you,
this generation will not pass away
until all these things have taken place. 
Heaven and earth will pass away,
but my words will not pass away.

“But of that day or hour, no one knows,
neither the angels in heaven, nor the Son, but only the Father.”

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật XXXII Thường Niên - B -

TIN MỪNG: Mc 12,38-44. 

“Thầy bảo thật anh em: Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.”

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô:

Trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”. Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào hòm đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma. Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần tương ứng với hai hạng người tiêu biểu trong đạo Do thái là giới kinh sư và giới bà góa nghèo như sau: Trước hết, Đức Giê-su khiển trách thói đạo đức giả của các kinh sư Do thái, biểu lộ qua 4 thói xấu của họ như: ăn mặc đài các, tìm kiếm hư danh, tranh giành địa vị, đạo đức vụ lợi. Sau đó, Người đề cao lòng đạo đức của một bà góa nghèo, biểu lộ qua việc dâng cúng tiền bạc vào thùng Đền Thờ. Tuy số tiền bà dâng không bao nhiêu, nhưng nhờ có lòng hy sinh, nên bà đã được Đức Giê-su đánh giá là đã bỏ vào thùng nhiều hơn mọi người.

 

A. GỢI Ý:

1. Phép lạ về bình dầu không cạn và hũ bột không vơi là một minh chứng sống động cho sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, Đấng khéo léo lo liệu cho vị ngôn sứ của Người, và là Đấng không bỏ rơi những con người nghèo hèn, bé nhỏ nhưng một lòng tin tưởng và phó thác vào Người. Tôi có tin rằng Thiên Chúa vẫn hằng yêu thương, quan phòng, ngay cả khi tôi gặp những hoàn cảnh cô đơn, nghèo hèn, khốn khổ, bi đát?

2. Đức Kitô thật là vị Thượng Tế hoàn hảo, là trung gian hữu hiệu giữa Thiên Chúa và con người, Đấng vào chính cõi trời để dâng máu mình làm của lễ đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho con người. Người đã học vâng phục thánh ý Thiên Chúa ngay cả trong những lúc đau khổ nhất nên không có nỗi khổ đau nhân loại nào mà Người không thể cảm thấu. Tôi có xác tín mạnh mẽ rằng Đức Giêsu là trung gian hữu hiệu nhất dẫn tôi đến với Thiên Chúa, và là nguồn ơn cứu độ duy nhất của đời tôi?

3. Chúa Giêsu nhìn thấu và lên án lòng dạ xấu xa bên trong của các ông kinh sư dù bên ngoài họ tỏ ra đạo đức, nhưng Người lại khen ngợi lòng quảng đại của bà góa nghèo, dù nhìn bên ngoài số tiền dâng cúng của bà chẳng là gì so với những người giàu dâng nhiều tiền. Tôi có thường sống với chiếc mặt nạ? Cách tôi sống, những việc tôi làm có xuất phát từ tấm lòng chân thành và trung thực?

 

B. SUY NIỆM:

1. Hãy quảng đại dâng cho Chúa mọi sự thuộc về mình:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã lên án thái độ giả dối của các kinh sư Do thái và Người dạy môn đệ phải biết quảng đại cho đi, noi gương bà góa nghèo đã dâng hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma, là số tiền nhỏ bé bà có thể nuôi bản thân trong một ngày. Bà đã được Đức Giê-su đánh giá cao như sau: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào thùng. Còn bà này, thì đã rút từ sự túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12,43b-44).

 

2. Giá trị của một hành động bác ái từ thiện hệ tại chỗ nào?

- Giá trị ở sự hy sinh: Không hệ tại ở số tiền dâng cúng, mà ở cái giá mà người đó phải trả. Không phải là tầm cỡ lễ vật, mà là sự hy sinh của người dâng. Việc dâng nói đây không chỉ là dâng của cải vật chất, mà còn bao gồm cả cuộc sống của chúng ta. Chẳng hạn: Sáng sớm nghe chuông lễ, thay vì ngủ tiếp, nhưng chúng ta hy sinh đi dự lễ. Bạn bè rủ đi ăn nhậu, nhưng chúng ta hy sinh đi dự họp nhóm học sống Lời Chúa...

- Của ít lòng nhiều: Của nhiều mà lòng ít thì không quý bằng của ít lòng nhiều. Hai bà góa thời ngôn sứ Ê-li-a và thời Đức Giê-su sở dĩ được đề cao là do lòng yêu mến đối với người của Đức Chúa và với công việc nhà Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho hành động của hai bà có giá trị trước mặt Chúa. Và Chúa Giê-su đã khen bà góa trong Tin Mừng hôm nay tuy chỉ bỏ vào thùng hai đồng kẽm, nhưng bà đã dâng Chúa nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ nhiều tiền. Vì những người kia chỉ dâng số tiền dư, còn bà goá này dâng Chúa tất cả những gì bà đang cần để sống.

- Cần cho đi với lòng mến Chúa yêu người: Việc lành của chúng ta chỉ thực sự tốt khi nó được thực hiện với lòng mến. Câu chuyện về một người đàn bà dâng tiền ủng hộ đồng bào bị lũ lụt: Ban đầu bà đã quyết định tốt khi dự định bỏ thùng ủng hộ một triệu đồng. Nhưng khi thấy nhiều người khác cũng bỏ vào thùng một triệu như vậy, thì bà liền tăng số tiền ủng hộ lên gấp đôi để chứng tỏ mình có lòng quảng đại hơn người khác. Sau đó việc rút nhầm bao thơ 200 đôla Mỹ tương đương năm triệu đồng bỏ vào thùng là ngoài ý muốn của bà, thể hiện qua việc bà tiếc nuối và muốn đến đòi lại số tiền dư kia. Nhưng do thói sĩ diện hão, nên cuối cùng đành chấp nhận số tiền đã lỡ bỏ thùng hơn gấp nhiều lần. Số tiền bà này cho đi sẽ không có giá trị trước tòa phán xét vì như lời Chúa phán: “khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi” (x. Mt 6,2)

 

3. Về ba loại người cho và giá trị của ba cách cho:

- Một là người cho cách bất đắc dĩ: Do muốn tránh bị quấy rầy, nên dù cho mà trong lòng cảm thấy bực bội. Loại người này thường phân trần với bạn bè: “Mình ghét hắn ta, nhưng đành phải “thí” cho hắn ít tiền cho xong, để hắn mau biến cho khuất mắt!”.

- Hai là người cho để làm xong bổn phận: Loại người cho này dù đã cho mà vẫn không thấy vui. Họ thường nói với bạn bè: “Mình bị rơi vào hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan”: “Bỏ thì thương mà vương thì tội!” Thôi thì đành giúp đỡ hắn cho xong của nợ ! “.

- Ba là cho vì yêu thương: Do tự nguyện cho người nghèo nên trong lòng người cho sẽ cảm thấy vui vẻ. Trường hợp người được cho vì một lý do nào đó không nhận, thì người cho sẽ cảm thấy buồn. Loại người cho này thường hay nói với những người chịu đau khổ  bất hạnh: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” hoặc: “Tôi sẵn sàng chia sẻ những khó khăn bạn đang gặp phải”. Cách cho thứ ba này mới đẹp lòng Chúa và chúng ta cần thực hiện mỗi ngày, để của lễ chúng ta dâng sẽ bay lên trước tôn nhan Chúa và mang lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta trước tòa phán xét.

 

4. Hãy tập quảng đại cho đi để noi gương Chúa Cha:

Thiên Chúa Cha chúng ta đã biểu lộ một tình yêu quảng đại để nêu gương cho chúng ta như sau:

+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Ngài lại ban cả cánh rừng.

+ Chúng ta chỉ cần vài ngụm nước, mà Ngài lại ban cho cả dòng suối.

+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Ngài lại cho cả bãi biển rộng dài.

+ Chúng ta chỉ xin lương thực hàng ngày, mà Ngài lại ban cả Mình Máu Thánh của Chúa Giê-su.

Chúa Giê-su phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Mỗi ngày chúng ta nên thực hiện một số việc quảng đại như Francis Balfour đã liệt kê một số việc cụ thể mà các tín hữu chúng ta nên thực hiện như sau:

+ “Món quà đẹp nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan dung tha thứ;

+ Quà tặng cho bạn bè là thái độ trung tín và chân thành;

+ Quà cho các em nhỏ là tấm gương bác ái và khiêm nhường phục vụ;

+ Quà tặng cho ông bố trong gia đình là thái độ tôn kính và vâng lời,

+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương và chia sẻ với bà công việc nội trợ;

+ Và cuối cùng, quà cho mọi người chung quanh là nụ cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân ái, một lời khen thành thật, cùng thái độ lắng nghe và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu noi gương Đức Giê-su”.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, cách đánh giá của Chúa trong Tin Mừng hôm nay khác hẳn cách nhìn nhận sự việc của chúng con. Vì “Loài người nhìn mặt, còn Chúa lại nhìn lòng!” (1 Sm 16,7). Chúa khen bà góa nghèo đã bỏ tiền dâng cúng nhiều hơn ai hết. Dù số tiền của bà nhỏ bé, nhưng bà “đã dâng tất cả những gì mình có để nuôi sống mình”. Bà dâng do lòng mến Chúa thôi thúc, nên đã được Chúa đánh giá: “Bà đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43). Về phần chúng con: Nhiều khi chúng con dễ bị chán nản buông xuôi không làm việc tốt, khi không được nhiều người biết đến và khen ngợi... Xin Chúa thanh luyện ý hướng khi làm việc lành của chúng con. Chúng con tin rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương” (x. Mt 6,1-4), nếu công việc chúng con làm thực sự tốt thì sớm muộn cũng sẽ được người chung quanh nhận biết và họ sẽ cùng chúng con ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng con (x. Mt 5,14-16). Amen.

 

GOSPEL (Mk 12:38-44):

In the course of his teaching Jesus said to the crowds,
“Beware of the scribes, who like to go around in long robes
and accept greetings in the marketplaces,
seats of honor in synagogues, 
and places of honor at banquets.
They devour the houses of widows and, as a pretext
recite lengthy prayers. 
They will receive a very severe condemnation.”

He sat down opposite the treasury
and observed how the crowd put money into the treasury. 
Many rich people put in large sums.
A poor widow also came and put in two small coins worth a few cents. 
Calling his disciples to himself, he said to them,
“Amen, I say to you, this poor widow put in more
than all the other contributors to the treasury. 
For they have all contributed from their surplus wealth,
but she, from her poverty, has contributed all she had,
her whole livelihood.”

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

02/11: Lễ Các Tín Hữu Đã Qua Đời -

TIN MỪNG: Ga 6, 37-40. 

“Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an:

Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”

Đó là Lời Chúa.

 

I. SUY NIỆM:

1. Đức Ki-tô thiết lập Nước Trời: 

Nước Trời trần gian là Hội Thánh ở trần gian hôm nay và Nước trời trên Thiên đàng mai sau. Điều kiện để được gia nhập vào Nước Trời Hội Thánh ở trân gian là phải có lòng sám hối tội lỗi và  tin vào Chúa Giê-su, phải được tái sinh bởi nước và Thánh Thần như lời Đức Giê-su đã kêu gọi khi ra giảng đạo: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”  (Mc 1, 15). Người cũng dạy: “Không ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3, 5). Phải thực hành giới răn bác ái bằng cách thực thi Tám mối phúc (x. Mt 5, 3-12). Ngoài ra, để có được sự sống vĩnh cửu trên Thiên đàng, đòi người ta phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13, 24), phải “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa” (x. Mc 8, 34), và “cùng chết với Chúa để cùng được sống lại với Người” (Rm 6, 8).

 

2. Mầu nhiệm các thánh thông công:

Chúa Giê-su chỉ thiết lập một Hội Thánh duy nhất trên nền đá tảng đức tin của tông đồ Phê-rô đã tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Hội thánh do Đức Giê-su thiết lập gồm ba tình trạng:

Một là Hội Thánh Lữ Hành trần gian gồm các tín hữu đang sống, đang phải chiến đấu chống lại ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình.

Hai là Hội Thánh Vinh Quang trên Thiên đàng gồm các thánh nam nữ đang được hưởng hạnh phúc với Chúa.

Ba là Hội Thánh Đau Khổ gồm các linh hồn đang được thanh luyện trong chốn luyện hình, để họ ngày thêm thanh sạch thánh thiện và hy vọng một ngày nào đó sẽ được về Thiên đàng. Còn những ai chối bỏ Thiên Chúa, nghe theo ma quỷ phạm các tội ác mà không chịu hồi tâm sám hối, là đã tự loại mình ra khỏi Hội Thánh và sẽ bị phạt trong hỏa ngục muôn đời, “chung số phận với tên Ác quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25, 41).

 

3. Bổn phận đối với các linh hồn trong luyện ngục:

Đức Giê-su đã mặc khải về sự thanh luyện ở đời sau khi nói: “Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi nơi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5, 26). Luyện ngục chính là phương cách Chúa dùng để thanh luyện các linh hồn khi chết vẫn còn mang vết nhơ tội lỗi hay chưa đền bù những thiệt hại đã gây ra cho tha nhân khi còn sống ở trần gian. Cầu xin Chúa giúp họ ngày một nên thanh sạch thánh thiện để sớm được Chúa rước về Thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Do đó, trong tháng các linh hồn này, mỗi tín hữu chúng ta cần dọn mình lãnh các ơn đại xá tiểu xá (với các điều kiện thường lệ), để chuyển các ơn ấy cầu cho các linh hồn trong chốn luyện hình; Ngoài ra, cần siêng năng lần hạt Mân Côi, xin lễ và làm những việc bác ái để đền tội thay cho các linh hồn là thân nhân, hay các linh hồn mồ côi… để họ sớm được về trời. Khi lên trời chắc họ sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Còn các linh hồn bị sa hỏa ngục do đã trở thành quỷ dữ, thì không còn thuộc về Hội Thánh nữa, nên chúng ta không cần cầu nguyện cho họ.

 

4. Về việc cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi:

Thực ra, Hội thánh từ xưa đến nay không đặt vấn đề “linh hồn mồ côi” trong niềm tin và trong thực hành. Hội thánh không hề phân biệt linh hồn nào là mồ côi, linh hồn nào có thân nhân cầu nguyện, nên trong mọi thánh lễ dù có người xin lễ cầu riêng cho linh hồn thân nhân, thì vẫn có lời cầu chung cho tất cả “các tín hữu đã ly trần trong tình thương của Chúa”, gồm mọi tín hữu và cả các linh hồn chưa nhận biết Chúa. Như vậy: Nói linh hồn mồ côi chỉ là nói theo cách suy nghĩ của loài người chúng ta, nhưng cũng không sai với giáo lý và sự thực hành của Hội Thánh.

Thật vậy, trong phụng vụ thánh lễ hay kinh nhật tụng, Hội thánh vẫn khuyến khích việc cầu nguyện chung cho các linh hồn cũng như riêng từng linh hồn theo ý người xin lễ để cầu cho linh hồn mới qua đời cũng như cầu chung cho các linh hồn. Việc cầu nguyện ấy chắc sẽ mang lại lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn. Từ đó, có thể suy ra: những linh hồn không có thân nhân xin lễ cầu nguyện sẽ bị thua thiệt, nên đức ái buộc các tín hữu còn sống cũng phải cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi này. Linh hồn mồ côi chính là những linh hồn bị quên lãng, vẫn đang được thanh luyện trong chốn luyện hình, nên rất cần được các tín hữu chúng ta vì đức bác ái hãy tưởng nhớ, xin lễ và làm các việc lành để cầu cho họ nữa.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cho các linh hồn đã qua đời được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen.

 

GOSPEL (Jn 6:37-40):

Jesus said to the crowds:
“Everything that the Father gives me will come to me,
and I will not reject anyone who comes to me,
because I came down from heaven not to do my own will
but the will of the one who sent me.
And this is the will of the one who sent me,
that I should not lose anything of what he gave me,
but that I should raise it on the last day.
For this is the will of my Father,
that everyone who sees the Son and believes in him
may have eternal life,
and I shall raise him on the last day.”

The Gospel of the Lord

 

Lm. Đan Vinh

 

01/11: Lễ Các Thánh Nam Nữ - B -

TIN MỪNG: Mt 5, 1-12a:

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu:

Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”.

Đó là Lời Chúa.

 

I. SUY NIỆM:

Chỉ có một Giáo Hội duy nhất, nhưng gồm ba tình trạng: Một là những tín hữu đang sống trên trần gian đang đi trên đường về quê trời gọi là Hội Thánh Lữ Hành; Hai là các thánh nam nữ đang được hưởng phúc thiên đàng với Thiên Chúa gọi là Hội Thánh Chiến Thắng; Ba là các linh hồn đã qua đời trong tình thương của Thiên Chúa, nhưng vẫn còn mang vết nhơ tội lỗi hay chưa đền bù xong các món nợ với Chúa và với tha nhân, nên cần tiếp tục được thanh luyện trong chốn luyện hình gọi là Hội Thánh Đau Khổ (x. GLTYGHCG số 195).

Hằng năm Hội thánh dành thời gian suốt tháng 11 để tưởng nhớ những người đã qua đời. Ngoài những vị hiển thánh được Hội Thánh tôn kính đặc biệt trong niên lịch phụng vụ, còn rất nhiều tín hữu đã sống một đời sống tốt lành thánh thiện theo gương Đức Giê-su và khi qua đời đã được hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng, được mừng chung trong ngày 01 tháng 11 hằng năm và gọi là lễ kính Các Thánh Nam Nữ.

 

1. Nên thánh là gì?

- Nên thánh là một đòi hỏi của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en là con dân của Ngài, như Ngài đã truyền dạy cho họ: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv  19, 2).

- Nên thánh là sự biến đổi nên thiện hảo noi gương Thiên Chúa như Đức Giê-su đã dạy các môn đệ: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).

- Nên thánh chính là biến đổi nên giống Đức Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa, từ cách suy nghĩ nói năng đến hành động, luôn làm theo gương mẫu và lời dạy của Người, như Chúa Cha đã giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3, 17).

- Nên thánh là để được gia nhập vào Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập là Hội Thánh hôm nay và Thiên đàng mai sau. Nước Trời này chỉ dành cho những ai có đủ điều kiện như Tám Mối Phúc Thật đòi hỏi là: Phải có tinh thần nghèo khó, ăn ở hiền lành, đang bị ưu sầu đau khổ, ước mong được nên công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, luôn ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì sống công chính…

 

2. Nên thánh hôm nay là gì?

Nên thánh hôm nay chính là đi con đường thánh giá của Đức Giê-su. Đây là đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi. Là con đường bỏ đi ý riêng để vâng theo ý Chúa, là loại bỏ các thói hư tội lỗi bằng việc tập luyện các nhân đức, là kiên trì vác thập giá là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày mà bước theo sau Đức Giê-su. Là chấp nhận cùng chịu đau khổ, cùng chết với Người để được phục sinh với Người như Người đã nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Và “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 22-23).

 

3. Chiến đấu với ba thù:

Cuộc sống luôn có rất nhiều cám dỗ của ma quỉ, của thế gian và sự yếu đuối của xác thịt mình. Cám dỗ tìm sự dễ dãi theo tính tham lam và dục vọng… Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ chúng ta phạm tội chống lại Thiên Chúa và bị mất ơn cứu độ. Nhưng chúng cũng không thể làm gì được nếu chúng ta biết cậy nhờ ơn Chúa giúp qua lời cầu nguyện như Tông đồ Phê-rô đã kêu cầu Thầy khi sắp bị chìm xuống biển: “Thưa ngài, xin cứu con với” (Mt 14, 30). Chúa sẽ đưa tay ra nắm lấy tay chúng ta và cho chúng ta lên thuyền bình an. Với điều kiện chúng ta phải xa lánh dịp tội và năng suy niệm Lời Chúa, cầu xin ơn Thánh Thần trợ giúp. Chính nhờ sức mạnh đức Tin và nhờ quyền năng của Thánh Thần mà chúng ta hy vọng sẽ có thể đứng vững và chiến thắng ma quỷ trong trận chiến cam go này, như lời thánh Phê-rô đã viết: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức Tin mà chống cự” (1 Pr 5, 8-9).

 

4. Chiều rộng của Ơn Cứu Độ:

- Ngày lễ hôm nay là lễ tưởng nhớ, vui mừng hiệp thông với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, tất cả những người thân đã ra đi trước chúng ta và đã được về trời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.

- Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là tu sĩ, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người.

- Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta  hân hoan chúc tụng Các Thánh là bạn của chúng ta và xin các Ngài cầu thay nguyện giúp, để chúng ta nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các Ngài, và quyết tâm sống thánh giữa đời noi gương các Ngài.

- Chúng ta hãy cầu xin các Thánh giúp chúng ta tập sống thánh thiện trên đường trọn lành như lời Chúa Giê-su: “Các con hãy nên Thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh”. Thánh Au-gút-ti-nô đã nói: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không được?”

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Thiên Chúa Cha từ bi nhân ái, chúng con xin tạ ơn Cha vì quyền năng và tình thương của Cha đã tác động trên các thánh. Nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và toàn thể các thánh nam nữ, chúng con xin Cha ban cho chúng con cũng được dồi dào ân sủng như các thánh hôm nay chúng con mừng kính. Hầu mai ngày, chúng con được cùng các ngài sum họp trên trời để tôn vinh và chúc tụng tình thương của Cha đến muôn đời. Amen.

 

GOSPEL (Mt 5:1-12a):

When Jesus saw the crowds, he went up the mountain,
and after he had sat down, his disciples came to him.
He began to teach them, saying:
“Blessed are the poor in spirit,
for theirs is the Kingdom of heaven.
Blessed are they who mourn,
for they will be comforted.
Blessed are the meek,
for they will inherit the land.
Blessed are they who hunger and thirst for righteousness,
for they will be satisfied.
Blessed are the merciful,
for they will be shown mercy.
Blessed are the clean of heart,
for they will see God.
Blessed are the peacemakers,
for they will be called children of God.
Blessed are they who are persecuted for the sake of righteousness,
for theirs is the Kingdom of heaven.
Blessed are you when they insult you and persecute you
and utter every kind of evil against you falsely because of me.
Rejoice and be glad,
for your reward will be great in heaven.”

The Gospel of the Lord

 

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật XXXI Thường Niên - Năm B -

TIN MỪNG: Mc 12,28b-34.

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,… phải yêu người thân cận như chính mình.”

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô:

Khi ấy, có người trong nhóm kinh sư đến gần Đức Giê-su và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Đức Giê-su trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. Ông kinh sư nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, hay lắm. Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy thì bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.   

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho vị kinh sư Do Thái khi ông chất vấn Người về điều răn nào là quan  trọng nhất trong toàn bộ Luật pháp Mô-sê. Người đã nêu ra hai điều răn quan trọng nhất là mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu chính mình. Ông kinh sư cũng nhất trí như vậy và còn cho rằng hai điều này có giá trị hơn mọi của lễ toàn thiêu và hy lễ dâng lên Đức Chúa tại đền thờ.

 

A. GỢI Ý:

1. Tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng duy nhất và ngoài Người ra không có thần nào khác nữa; yêu mến Thiên Chúa với tất cả tấm lòng và khả năng, đồng thời dạy cho con cháu ghi nhớ và thực hiện qua mọi thế hệ là xác tín căn bản của mọi người dân Do Thái. Chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa và yêu mến Người với tất cả tấm lòng và khả năng cũng là nền tảng căn bản của đời sống Kitô hữu. Giữa bao nhiêu thứ thụ tạo mà con người ngày nay vẫn tôn là thần để thờ và dành mọi khả năng và sức lực để đạt được với tất cả sự say mê, thì việc tôn thờ và yêu mến chỉ một mình Thiên Chúa vẫn là một thách đố cho con người trong thời đại hôm nay. Mỗi Kitô hữu được lời Chúa hôm nay nhắc nhở để cảnh giác với mọi loại thờ ngẫu tượng.

2. Tác giả thư Do Thái cho thấy vị thế trổi vượt của Đức Kitô thượng tế, Đấng thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, nhưng đã chấp nhận chết để dâng của lễ là chính mình một lần duy nhất mà vĩnh viễn đem lại ơn tha tội cho những ai tin. Giờ đây Người hằng ở bên hữu Thiên Chúa để chuyển cầu hiệu quả cho những ai nhờ Người mà đến gần Thiên Chúa. Mỗi Kitô hữu đều được chuộc bằng giá máu của Đức Kitô thượng tế đổ ra để ban ơn tha tội. Những lúc yếu đuối, bất toàn, tội lỗi, người Kitô ý thức sâu xa về giá trị vô giá của máu Đức Kitô đổ ra vì mình. Đồng thời, người Kitô hữu cũng được thôi thúc sống thánh thiện và dâng những hy sinh hằng ngày như là những của lễ đẹp lòng Thiên Chúa.

3. “Yêu mến Thiên Chúa” và “yêu người thân cận” đều là những đòi buộc của lề luật trong Cựu Ước đối với dân Israel, nhưng Chúa Giêsu đã kiện toàn lề luật đó khi đặt hai đòi buộc này bên cạnh nhau và ngang hàng với nhau. Hai điều răn được kết hợp thành một điều răn duy nhất: điều răn yêu thương. Người ta không thể nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu thương anh chị em mình (x. 1 Ga 4,20). Mỗi người Kitô hữu đều thuộc lòng điều răn đứng đầu này và theo thánh Phaolô, chỉ cần thực hiện điều răn yêu thương này thôi thì cũng đủ cho đời sống Kitô hữu, vì “yêu thương là chu toàn lề luật vậy” (Rm 13,10). Yêu thương thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Yêu thương thì tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (x. 1 Cr 13,4-7).

 

B. SUY NIỆM:

Đức Chúa đã ban cho dân Do Thái mười điều răn được khi khắc trên hai bia đá qua trung gian Mô-sê. Về sau, các luật sĩ đã giải thích áp dụng cụ thể làm thành 613 khoản luật gồm 248 luật buộc làm và 365 luật cấm làm. Các đầu mục Do Thái thời Đức Giê-su đã không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay họ hỏi Đức Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?” Người đáp: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12,30-31). Đức Giê-su đã tóm lại toàn bộ các giới răn vào một giới răn trọng nhất là “mến Chúa yêu người”.

 

1. Mến Chúa hết lòng và yêu tha nhân như yêu mình:

Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Qua đó Đức Giê-su đã liên kết luật mến Chúa với luật yêu người. Người đã kết hợp hai điều thành một điều, như hai mặt của một đồng tiền. Về sau, thánh Gio-an còn quả quyết như sau: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga.4,20). Tuy nhiên Đức Giê-su còn nhấn mạnh thương người chính là điều kiện để biểu lộ lòng mến Chúa thực sự và để lễ vật chúng ta dâng lên xứng đáng được Chúa chấp nhận: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Thế nhưng, cụ thể chúng ta phải yêu thương anh em như thế nào?

 

2. Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân:

- Truyền thống Do Thái có câu chuyện như sau: Ngày kia một người tìm đến với thầy Sa-mai, thuộc phái giải thích luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý định tìm kiếm chân lý. Ông hỏi: “Thầy có thể dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật trong thời gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không thể ở lại Giê-ru-sa-lem lâu được”. Nghe nói thế, thầy Sa-mai nổi giận và truyền đuổi ông ra khỏi nhà mình. Không mất niềm hy vọng, ông ta tìm đến với thầy Gil-len, một người vừa thông thái, lại vừa cởi mở phóng khoáng. Trước cùng một câu hỏi được đưa ra, thầy Gil-len đã trả lời: “Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Đó là cái cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ khác, chỉ là để giải thích cho giới luật này mà thôi”.

- Trong Cưu Ước, Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a con như sau: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác” (Tb 4,15a). Điều không thích còn bao hàm các việc cụ thể như: không nói xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và rất nhiều những điều khác nữa. Nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ được an vui hạnh phúc. Đức Khổng Tử cũng khuyên đồ đệ tương tự: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Còn Đức Giê-su đã dạy các môn đệ phải thực hành yêu thương tích cực: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

 

3. Thực hành giới răn yêu người cụ thể:

Yêu thương không chỉ bằng lời nói suông, hay bằng tình cảm nhất thời chóng qua, nhưng bằng các việc làm cụ thể như kinh Thương Người dạy, trong đó gồm thương xác bảy mối và thương linh hồn bảy mối. Thánh Gia-cô-bê cũng đòi các tín hữu phải yêu thương bằng việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của tha nhân như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2, 15-16).

 

4. Yêu thương cụ thể theo linh đạo của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta:

Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã dạy các nữ tu cần thực hành yêu thương cụ thể như sau:

Hãy bắt đầu yêu thương các người thân trong gia đình: “Tôi luôn luôn nói rằng, tình yêu phải khởi sự từ gia đình trước đã, rồi sau đó mới đến thành phố hay đô thị. Yêu thương những người ở xa chúng ta thì dễ, nhưng yêu thương những người sống với chúng ta hay ở ngay bên chúng ta lại không dễ chút nào.”

- Đừng xét đoán hay nói xấu tha nhân: “Nếu bạn xét đoán, bạn sẽ không còn giờ để yêu họ”.

Hãy quảng đại cho đi: “Bạn phải cho đi những gì làm bạn bị thiệt thòi. Như thế, không chỉ cho đi những gì dư thừa, nhưng cho cả những gì bạn không thể sống nếu không có nó, những gì bạn thật sự yêu thích. Như thế, món quà của bạn trở thành lễ hy sinh, có giá trị trước mặt Chúa”.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Phục vụ trong yêu thương:

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn sống phục vụ trong yêu thương:

Nơi cộng đoàn, biết tâm đầu ý hợp.

Trong gia đình, biết mặn mà dễ thương.

Ngoài xã hội, biết đối xử tốt và thương xót.

Với mọi người, biết nhân nhượng và tôn kính nhau.

Khi làm việc, biết siêng năng và tận tình.

Trong mọi sự, biết tha thứ, chịu đựng và tin tưởng.

Ở mọi nơi, luôn chiếu tỏa lòng Chúa hiền hậu và khiêm nhường.

Trước cám dỗ, luôn chiến thắng để bền đỗ trong ơn thánh.

Nhờ đó, chúng con trở nên tông đồ được Chúa sai đi,

Mà làm chứng về Chúa cho mọi ngươi.- AMEN.

(Lời cầu của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta).

 

GOSPEL (Mk 12:28b-34):

One of the scribes came to Jesus and asked him,
“Which is the first of all the commandments?”
Jesus replied, “The first is this:
Hear, O Israel!
The Lord our God is Lord alone!
You shall love the Lord your God with all your heart,
with all your soul, 
with all your mind,
and with all your strength.

The second is this:
You shall love your neighbor as yourself.
There is no other commandment greater than these.”
The scribe said to him, “Well said, teacher.
You are right in saying,
“He is One and there is no other than he.”
And to love him with all your heart,
with all your understanding,
with all your strength,
and to love your neighbor as yourself
is worth more than all burnt offerings and sacrifices.”
And when Jesus saw that he answered with understanding,
he said to him,
“You are not far from the kingdom of God.”
And no one dared to ask him any more questions.

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật XXX Thường Niên - Năm B -

TIN MỪNG: Mc 10,46-52.

“Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô:

Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giêricô, khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêricô, thì có một người hành khất mù, tên là Báctimê, con ông Timê, đang ngồi ở vệ đường. Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi. Nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Đức Giê-su đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy, mà đến gần Đức Giê-su. Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Trên bước đường đi về Giêrusalem để chịu tử nạn và phục sinh, thì tại thành Giêricô, Đức Giê-su đã chữa cho một người mù tên là Báctimê, đang ngồi ăn xin bên vệ đường, vì anh đã tin cậy nơi Người. Qua phép lạ mở mắt người mù này, Người muốn mở mắt đức tin cho các môn đệ, để họ thấy được ý nghĩa cao cả của sứ mạng cứu thế mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem là: “Qua đau khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh”.

 

A. GỢI Ý:

1. Đối với Israel, Ta là một người Cha. Lời khẳng định của Chúa qua ngôn sứ Giêrêmia như là một khẳng định chắc chắn và dứt khoát về bản tính của Người. Dù Israel có phạm tội, có bất trung, dù có bị lưu đày, Thiên Chúa vẫn mãi là thân phụ, một người Cha yêu thương con người. Tôi cảm nghiệm điều gì nơi Chúa trong những lúc “lưu đày” của đời mình?

2. Thư Do Thái hôm nay nêu bật bản tính của vị Thượng Tế Giêsu: luôn cảm thông và liên đới với những kẻ lầm lạc. Mỗi thánh lễ hôm nay là một hy tế dâng lên Thiên Chúa Cha được gói ghém cùng với những thân phận con người. Tôi cảm nghiệm điều gì mỗi lần tôi cùng với cộng đoàn tham dự hy tế thánh lễ mỗi ngày?

3. “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được. Đó là lời kêu xin khẩn thiết của anh mù Bartimê năm xưa trong thân phận ‘bên vệ đường’ của mình. Tôi đang trong hoàn cảnh nào trong tương quan với Chúa và tha nhân? Tôi muốn xin điều gì với Chúa hôm nay: “tấm áo choàng” hay “được nhìn thấy”?

 

B. SUY NIỆM:

1. Anh mù gặp Chúa đã được sáng mắt sáng lòng:

- Tin mừng hôm nay ghi nhận câu chuyện về người mù thành Giêricô đã chạy đến với Đức Giê-su không nhờ con mắt thể xác nhưng nhờ con mắt đức tin của anh. Tuy mắt anh không nhìn thấy Đức Giê-su, nhưng chính con mắt đức tin đã mách bảo và dẫn đường để anh chạy đến với Người. Trước đó anh đã nghe đồn Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và anh đã ao ước gặp Người để xin Người chữa anh khỏi bị mù. Vì thế khi nghe thấy một đám đông đang tiến đến gần chỗ anh đang ngồi ăn xin bên vệ đường và anh nghe tiếng của một ráp-bi đang vừa đi đường vừa giảng, thì anh liền dò hỏi người chung quanh. Khi biết vị tôn sư kia chính là Đức Giê-su Nadarét, là người mà anh đã nghe biết và mong sớm được gặp mặt.

- Bấy giờ anh mù liền kêu to: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Dù bị nhiều người đi trước cấm nói to, nhưng anh mù lại càng la to hơn với hy vọng được Đức Giê-su nghe thấy. Quả thật Đức Giê-su đã nghe thấy tiếng kêu cứu của anh và Người cho gọi anh đến gặp Người. Nghe vậy anh mù liền quăng chiếc áo choàng đang khoác trên mình lại, để nhảy chồm dậy chạy mau đến gặp Người như trước đó anh chưa hề bị mù. Sau khi biết về lòng tin và mong ước của anh, Đức Giê-su liền tuyên bố: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”.

- Lập tức anh mù đã được sáng mắt để thấy được đường đi, mà anh còn được sáng lòng để tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và tình nguyện theo Người đi lên Giêrusalem để cùng Người đi con đường “qua đau khổ thập giá vào trong vinh quang phục sinh”.

 

2. Hãy xin Chúa mở mắt đức tin cho chúng ta:

- Chúa Giê-su đã chữa lành bệnh mù thể xác, và Người cũng chữa lành bệnh mù tâm hồn. Chính bệnh mù tối tâm hồn này còn tác hại nhiều hơn bệnh mù ngoài thể xác. Nó được biểu hiện qua thái độ  không chấp nhận sự thật của đức Tin, không nhận ra tình thương và những sự thiện hảo nơi người khác. Vậy mỗi người chúng ta cần tự hỏi mình vào buổi tối trước khi đi ngủ: “Hiện giờ tôi có bị bệnh mù tối tâm hồn hay không?” Nếu có, hãy xin Chúa chữa lành như người mù trong Tin Mừng hôm nay bằng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa. Xin hãy mở mắt linh hồn con ra để con biết nghĩ đến người khác và biết cảm thông để chia sẻ tình yêu thương phục vụ cho họ”.

- Trong gia đình, vợ chồng cần sáng mắt tâm hồn khi biết quan tâm cảm thông với nhau và động viên nhau chu toàn nhiệm vụ lo cho gia đình được hòa hợp hạnh phúc...

- Trong giao tiếp xã hội, mỗi người chúng ta thay vì chỉ nhìn thấy khuyết điểm lầm lỗi của kẻ khác, chúng ta hãy quan tâm tìm kiếm mặt tốt của họ. Cần ý thức rằng: Dù là một kẻ xấu xa phạm tội cướp của giết người không gớm tay thì trong lòng họ vẫn còn ít nhất 5 phần trăm tốt. Điều quan trọng là chúng ta phải khám phá ra và nhân rộng những điều tốt này lên để giúp họ loại trừ dần 95 phần trăm điều xấu tội lỗi kia. Bởi đó, cùng với anh mù trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội và ban cho con được sáng mắt đức tin để nhận biết Chúa đang hiện thân trong anh chị em con và giúp họ ngày càng càng nên tốt lành giống Chúa nhiều hơn”.

 

3. Đừng ngăn cản lương dân và những người tội lỗi đến với Chúa:

- Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy thái độ không tốt của những người đang đi trước Đức Giê-su, khi nghe anh mù la to: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” thì họ đã quát nạt bắt anh phải im lặng. Khi lời kêu cầu của anh mù đã được Đức Giê-su nghe và truyền dẫn anh đến gặp Người thì những người kia mới dịu giọng và giúp anh đến gặp Người. Những người này đã trở thành rào cản anh mù đến với Đức Giê-su. Họ giống như những đầu mục Do thái đã bị Đức Giê-su quở trách: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt 23,13).

- Còn chúng ta cũng trở thành rào cản đáng trách, khi chúng ta ngăn chặn anh em tội nhân đến với Chúa bằng những câu nói nghi kỵ và khinh dể tội nhân… Chẳng hạn: Khi thấy một người đã từng nghiện rượu, cờ bạc, hút sách, trộm cắp giờ muốn hoàn lương… Lẽ ra phải khích lệ thì chúng ta lại nghi ngờ và nói những lời không tin lòng thành của họ muốn đến với Chúa.

Ngoài ra, các tín hữu chúng ta cũng gián tiếp ngăn cản người lương đến với Chúa khi sống bê tha tội lỗi hơn người lương, khiến nhiều người đang muốn theo đạo bị khựng lại khi họ chứng kiến sự gian tham, ăn ở bất công độc ác và hà hiếp bóc lột người dưới, hoặc khi thấy có vị mục tử bị đưa ra tòa xét xử vì những tội ác xấu xa… Bấy giờ chúng ta đã trở thành người phản chứng, thành rào cản khiến cho anh em lương dân khó lòng tin theo Chúa.

 

4. Cần làm gì để đi theo Chúa noi gương người mù hôm nay?

- Mỗi ngày chúng ta hãy xin Chúa mở mắt linh hồn để nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong những kỳ công Người đã làm trong vũ trụ thiên nhiên, nơi bản thân ta và nơi tha nhân… rồi dâng lời ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa.

- Mỗi khi gặp tình huống khó giải quyết, không biết phải chọn đi đường nào, chúng ta hãy xin Chúa Giê-su mở mắt đức tin bằng việc lắng nghe Lời Chúa dạy trong Kinh Thánh, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng theo ý Chúa. Khi gặp rủi ro thất bại, chúng ta hãy tín thác cậy trông vào Chúa quan phòng và sẵn sàng chấp nhận đi con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” noi gương người mù trong Tin Mừng hôm nay.

- Trong mọi giây phút cuộc đời, chúng ta hãy luôn biết khiêm tốn chạy đến xin Chúa Giê-su mở con mắt đức tin để thấy được sự thật toàn vẹn. Bấy giờ Người sẽ chỉ cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Cha và nhận ra mọi người đều là anh chị em con của một Cha chung trên trời là Thiên Chúa. Người sẽ dẫn đường cho chúng ta về trời qua con đường hẹp, leo dốc nhiều gai chông sỏi đá, vác thập giá hằng ngày; Đi con đường yêu thương hy sinh phục vụ tha nhân. Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Giê-su thì cũng sẽ được phục sinh với Người sau này.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong lòng con, để con biết năng đến tâm sự với Chúa. Xin cũng mở mắt đức tin giúp con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thiên nhiên, để con dâng lời ngợi khen Chúa. Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thánh lễ và nơi Nhà Tạm để con năng đến nghe Lời Chúa dạy và được kết hiệp mật thiết với Chúa nhờ việc rước lễ và biết chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho tha nhân. Xin cho con sáng mắt đức tin để nhìn thấy Chúa đang hiện thân nơi những người nghèo hèn, khuyết tật hay đang bị bỏ rơi và tuyệt vọng… để con động viên an ủi và ân cần phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, hầu con chu toàn sứ vụ làm chứng nhân cho tình thương của Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay. Amen.

 

GOSPEL (Mk 10:46-52):

As Jesus was leaving Jericho with his disciples and a sizable crowd,
Bartimaeus, a blind man, the son of Timaeus,
sat by the roadside begging.
On hearing that it was Jesus of Nazareth,
he began to cry out and say,
“Jesus, son of David, have pity on me.”
And many rebuked him, telling him to be silent. 
But he kept calling out all the more,
“Son of David, have pity on me.”
Jesus stopped and said, “Call him.”
So they called the blind man, saying to him,
“Take courage; get up, Jesus is calling you.”
He threw aside his cloak, sprang up, and came to Jesus. 
Jesus said to him in reply, “What do you want me to do for you?”
The blind man replied to him, “Master, I want to see.” 
Jesus told him, “Go your way; your faith has saved you.” 
Immediately he received his sight
and followed him on the way.

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật XXIX Thường Niên - B -

TIN MỪNG: Mc 10,35-45. 

“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.”

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô:

Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đến gần Đức Giê-su và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. (38) Đức Giê-su bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Các ông đáp: “Thưa được”. Đức Giê-su bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”. Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người".

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ ba về cuộc Thương Khó Người sắp trải qua, các môn đệ xem ra vẫn không hiểu và không muốn chấp nhận con đường đó.  Các ông vẫn đinh ninh rằng Thầy các ông sắp lên Giê-ru-sa-lem để làm Vua Mê-si-a và các ông đã tranh giành nhau vị trí quan trọng trong Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập (Mc 9,33-34; 10,35-40); Đức Giê-su đã nhắc nhở các môn đệ về bổn phận của người làm đầu là phải hầu thiên hạ và nên tôi tớ phục vụ mọi người (9,33; 10,41-45).

 

A. GỢI Ý:

1. “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”. Hình ảnh của Người Tôi Trung được thể hiện cách trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô: là Đấng đã sống và chết cho người khác. Tôi có muốn bước theo Đức Giêsu trên con đường dấn thân vì người khác, dù biết trên con đường này tôi có thể gặp đau khổ hy sinh? Tôi có nhận ra rằng “chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình); nhờ đó, tôi tìm được ý nghĩa của cuộc sống?

2. “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta”. Quả thật, Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận yếu hèn của con người, đến gần để đồng cảm với con người hầu kéo con người về với Thiên Chúa. Tôi có một tinh thần gần gũi và nâng đỡ những người mà Thiên Chúa gửi đến cho tôi trong cuộc sống? Tôi có một quả tim biết rung cảm trước những nhu cầu cấp thiết của anh chị em?

3. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Quyền lực và địa vị, ích kỷ và lòng tham luôn là những cám dỗ đối với con người. Ngay các môn đệ của Chúa Giêsu cũng không tránh khỏi điều đó. Đức Giêsu không chỉ mời gọi các môn đệ mà còn mời gọi tất cả kitô hữu tiếp nối sứ vụ phục vụ của Người. Đáp lại, trong đời sống đạo, có nhiều người nam cũng như nữ và nhiều bạn trẻ đã quảng đại hy sinh bản thân mình vì tình yêu đối với Tin Mừng và việc phục vụ anh chị em mình. Kho tàng của Thiên Chúa được mở rộng và chất đầy bằng việc mở hầu bao của các nhà hảo tâm, sự quảng đại đóng góp vật chất kẻ ít người nhiều theo khả năng của anh chị em trên khắp mọi miền đất nước. Cánh tay thi ân của Thiên Chúa được nối dài nơi những bàn tay của anh chị em tình nguyện đến từng con hẻm ngắn, ngõ ngách sâu đang bị phong tỏa để trao những túi quà nhỏ chứa đựng lương thực và nhu yếu phẩm nhưng chất đầy tâm tình to. Vào lúc này, xã hội và Giáo hội đang rất cần chúng ta “tiếp tục nâng đỡ người nghèo vượt qua khó khăn” bằng sự chia sẻ vật chất, và cả việc “An ủi, động viên và giúp đỡ những anh chị em đang đau khổ. Một lời chia sẻ cảm thông, những lần thăm viếng thường xuyên, sẽ đem lại sức mạnh và nghị lực tinh thần để họ đứng dậy tiếp tục bước đi” (Thư Mục Vụ TGP. Sài gòn ngày 4/10/2021). Về phần mình, tôi có sử dụng những gì mà Thiên Chúa thương ban cho tôi để phục vụ người khác thay vì đòi hỏi được phục vụ? 

 

B. SUY NIỆM:

1. Con người ai cũng muốn được ngồi vào chỗ nhất:

Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã không ngần ngại xin Đức Giê-su cho ngồi hai bên tả hữu Thầy là hai chỗ tốt nhất, khi Thầy lên làm Vua Mê-si-a. Mười môn đệ kia nghe vậy rất bực mình. Điều này cho thấy họ cũng muốn ngồi chỗ ấy.

Thực ra, tự bản chất, mỗi chúng ta đều muốn được “ăn trên ngồi trước”. Xã hội cũng tôn vinh những người địa vị cao, khuyến khích những người đoạt giải nhất trong các cuộc thi, hoan hô các nhà vô địch “khỏe nhất, nhanh nhất, xa nhất” đúng như khẩu hiệu thường được nghe nhắc tới trong các Đại Hội Thể Thao Ô-lym-pic…

 

2. Hai mẫu lãnh đạo: Vua chúa thế gian và mục tử Giê-su:

Đức Giê-su đã so sánh hai mẫu người lãnh đạo đối lập nhau: Mẫu người thứ nhất là vua chúa thế gian thì dùng uy quyền để thống trị và cai quản dân. Mẫu người thứ hai là Đức Giê-su thì khiêm tốn phục vụ mọi người như đầy tớ phục vụ cho chủ: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em mình thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10.45)..

 

3. Đức Giê-su: “Đến để phục vụ hơn là được phục vụ”:

Khi đi giảng đạo, Đức Giê-su luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ tha nhân: Người đã làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế như: “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7,22; Is 35,5-6; 42,7).

Để cứu độ chúng ta, Người chấp nhận hy sinh chịu chết trên thập giá, hầu chứng tỏ một tình yêu tột đỉnh (x Ga 15,13).

Trong bữa tiệc ly Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và sau đó đã dạy các ông bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau như sau: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15).

 

4. Chúng ta phải làm gì?

Để nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su, chúng ta cần sống tình yêu thương tha nhân cách cụ thể như sau:

- Quảng đại cho đi: Mỗi ngày hãy quảng đại cho đi những gì mình đang có. Bác sĩ Tom Dolly đã nói như sau: “Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác”. Dù là người bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu, không ai trong họ là người hoàn toàn vô dụng”.

- Khiêm tốn phục vụ: Ở bất cứ đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào mỗi người chúng ta đều có thể yêu thương và phục vụ tha nhân: Là người bán hàng: chúng ta có thể nói với khách hàng như sau: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?”. Là bác sĩ hay y tá bệnh viện, chúng ta có thể ân cần chăm sóc phục vụ bệnh nhân; Là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta có thể phục vụ người nghèo, bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta. Vấn đề là chúng ta có sẵn sàng mở rộng con tim để đón nhận và yêu thương phục vụ tha nhân như chính Đức Giê-su không?

- Kiên trì tập luyện: Buổi tối mỗi người hãy dành một phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình: “Hôm nay tôi đã làm gì để phục vụ tha nhân? Chẳng hạn: Nở nụ cười thân thiện với người mới gặp; Trao cái nhìn yêu thương cho một người ăn xin; Lắng nghe cảm thông với một người đang lo âu phiền muộn; Nói một lời để động viên an ủi người đang bị chán nản muốn buông xuôi mọi sự… Mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm kèm theo tình thương phục vụ tha nhân của người tín hữu chúng ta đều có giá trị để giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã hạ mình như đầy tớ phục vụ môn đệ và tình nguyện chịu chết đền tội thay cho chúng con. Xin giúp chúng con hiểu được tình yêu vô biên của Chúa và noi gương Chúa để yêu thương phục vụ mọi người. Xin cho chúng con biết năng nghĩ đến người bên cạnh và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa để xứng đáng trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Amen.

 

GOSPEL (Mc 10:35-45):

James and John, the sons of Zebedee, came to Jesus and said to him,
“Teacher, we want you to do for us whatever we ask of you.” 
He replied, “What do you wish me to do for you?”
They answered him, “Grant that in your glory
we may sit one at your right and the other at your left.” 
Jesus said to them, “You do not know what you are asking. 
Can you drink the cup that I drink
or be baptized with the baptism with which I am baptized?” 
They said to him, “We can.” 
Jesus said to them, “The cup that I drink, you will drink,
and with the baptism with which I am baptized, you will be baptized;
but to sit at my right or at my left is not mine to give
but is for those for whom it has been prepared.”
When the ten heard this, they became indignant at James and John. 
Jesus summoned them and said to them,
“You know that those who are recognized as rulers over the Gentiles
lord it over them,
and their great ones make their authority over them felt. 
But it shall not be so among you.
Rather, whoever wishes to be great among you will be your servant;
whoever wishes to be first among you will be the slave of all. 
For the Son of Man did not come to be served
but to serve and to give his life as a ransom for many.”

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật XXVIII Thường Niên - B -

TIN MỪNG: Mc 10,17-30. 

“Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo.”

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô:

Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quì xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Đức Giê-su đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết điều răn: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Đức Giê-su rảo mắt nhìn xung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại nói tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa, và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau”.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy muốn nên hoàn thiện, và đã có thiện chí tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa từ nhỏ. Nhưng anh lại không đủ dũng cảm và lòng tín thác vào Chúa quan phòng để làm theo lời khuyên của Đức Giê-su là: Chia sẻ của cải cho người nghèo để biến nó thành kho báu ân sủng trên trời, rồi đi theo làm môn đệ của Người. Sau đó, trả lời cho Phê-rô về phần thưởng của môn đệ, Đức Giê-su hứa sẽ ban gấp trăm những điều họ đã tự nguyện từ bỏ. Người cũng tiên báo những khó khăn họ sẽ gặp phải trên đường truyền giáo và sau này sẽ được sự sống muôn đời!”.

 

A. GỢI Ý:

1. Thiên Chúa ban cho Salômôn sự hiểu biết và thần khí khôn ngoan theo như lời cầu xin của ông. Đối với Salômôn, Đức Khôn Ngoan là thứ ông quý chuộng hơn bất cứ thứ gì khác trên đời, vì mọi thứ đều qua đi như cát bụi, còn Đức Khôn Ngoan mãi tồn tại. Vì lời cầu xin được xem là khôn ngoan trước mặt Chúa mà Salômôn không chỉ được Thiên Chúa ban cho điều ông cầu xin là Đức Khôn Ngoan mà còn được ban cho cả điều ông không xin. Tôi có muốn sống khôn ngoan là chỉ ưu tiên tìm kiếm Đức Khôn Ngoan là chính Chúa?

2. Lời Thiên Chúa sống động, hữu hiệu và sắc bén; Lời đó có sức tác động sâu xa, vừa cảnh báo vừa khích lệ. Lời được mạc khải vào thời cuối cùng qua Người Con là chính Đức Giêsu. Lời Thiên Chúa qua Đức Giêsu tác động thế nào trên cuộc đời tôi: cảnh báo, khích lệ, phê phán, an ủi?

3. Nước Trời không chỉ đòi hỏi người ta sống theo những đòi hỏi của Lề Luật, mà còn đòi hỏi một sự quyết liệt từ bỏ những gì cản trở trên đường trọn lành. Chỉ những ai sẵn sàng từ bỏ, sống phó thác vào Chúa và sống vì tha nhân thì mới xứng đáng làm công dân của Nước Trời. Người môn đệ khôn ngoan là người chấp nhận từ bỏ tất cả “vì Thầy và vì Tin Mừng”. Tôi có thật sự khao khát sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa? Tôi có dám hy sinh những nhu cầu của bản thân để sống vì Chúa và vì tha nhân? Tôi có muốn trở thành người môn đệ khôn ngoan, chọn Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người hơn những thứ khác?

 

B. SUY NIỆM:

1. Cần xác định thái độ đối với tiền của:

- Giá trị và cách sử dụng đồng tiền: Trong cuộc sống hằng ngày, tiền bạc luôn có giá trị và sức mạnh như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được” và: “Đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý…” Do đó, ngoài các tu sĩ được ơn kêu gọi dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân trong đời dâng hiến, nên cần phải sống siêu thoát bằng việc từ bỏ của cải vật chất như Đức Giê-su đề nghị chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21). Còn đối với các tín hữu, chúng ta cũng không cần bán đi tài sản để phân phát tất cả. Vì ai trong chúng ta cũng đều cần tiền để thỏa mãn những nhu cầu đi lại, ăn ở, may mặc, học hành, giải trí… và khỏi trở thành gánh nặng cho xã hội (x 2 Tx 3,8), để không bị vong thân, bán rẻ phẩm hạnh nếu rơi vào hoàn cảnh “khố rách áo ôm”, “chạy ăn từng bữa”… dễ làm liều như người ta thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm liều”, “Bần cùng sinh đạo tặc!” …

- Tránh làm tôi hai chủ : Chúng ta cần tránh vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của (x. Lc 16,13). Người môn đệ Đức Giê-su sẽ không coi tiền bạc là ông chủ, nhưng coi nó là đầy tớ. Vì: “Đồng tiền sẽ là một ông chủ xấu, nhưng lại là người đầy tớ tốt”. Một khi xác định Thiên Chúa là mục đích và đồng tiền chỉ là phương tiện, thì bấy giờ đồng tiền sẽ giúp chúng ta làm được những việc lớn lao, giúp chu toàn sứ mệnh “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn” (thánh Inhaxiô Loyôla).

 

2. Lòng tham của cải là trở ngại lớn để được vào Nước Trời:

- Ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co giữa một bên là ước muốn nên thánh và bên kia là sức quyến rũ lôi kéo của tiền bạc và hưởng các tiện nghi do đồng tiền mang lại. Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay đã tuân giữ các giới răn, nhưng lại không vượt qua được lòng ham mê của cải và sự hưởng thụ nên đã từ chối chia sẻ tiền của cho người nghèo khó. Đức Giê-su đã coi lòng tham lam của cải chính là trở ngại cản bước anh đi theo làm môn đệ của Người.

- Như vậy, tiền của là ơn lành của Thiên Chúa ban và sẽ mang lại nhiều ích lợi cho con người nếu người ta biết cách sử dụng nó. Nó chỉ trở nên xấu nếu người ta sử dụng nó để hưởng thụ ích kỷ và không muốn chia sẻ giúp đỡ tha nhân nghèo khó bệnh tật. Cũng vì đồng tiền mà nhiều người đã chối bỏ đức tin, phớt lờ tiếng lương tâm cáo trách để làm những điều bất chính, tội lỗi… Đây là nguy cơ mà bất cứ ai cũng đều có thể mắc phải. Lòng tham tiền bạc đã biến thành con lạc đà to lớn khiến người ta không thể chui lọt qua lỗ kim để vào được Nước Trời (x. Mt 19,24).

 

3. Thái độ phải có đối với tiền bạc của môn đệ Đức Giê-su:

- Trong cuộc sống đời thường, tiền bạc cũng như mọi thứ khác đều có thể phát sinh lợi ích nếu người ta biết sử dụng chúng như có người đã nói:

“Một đồng tiền mang ra kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi.

Một ánh lửa được chia sẻ là một ánh lửa tỏa lan.

Một vết dầu được thả vào chất lỏng là một vết dầu loang xa.

Đôi môi ta có mở ra thì mới có được nụ cười.

Bàn tay ta có chia sẻ thì tâm hồn mới có được niềm vui và hạnh phúc.”

- Về phạm vi thiêng liêng, Tin Mừng hôm nay cũng ghi lại Lời Chúa dạy: hãy biết sử dụng tiền của để mang lại ích lợi thực sự cho mình bây giờ và mai sau. Chúa Giê-su không bảo chàng thanh niên giàu có hãy vứt bỏ gia sản đang chiếm hữu, nhưng Người muốn anh biến gia sản thành đồng tiền vật chất và quảng đại chia sẻ đồng tiền đó cho những người nghèo khổ bất hạnh. Thái độ đó chính là điều kiện để anh ta trở nên môn đệ đích thực của Người: “Hãy đi bán những gì anh có mà phân phát cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).

 

4. Chúng ta phải làm gì?

- Đức Giê-su luôn mời gọi các môn đệ hãy sống khiêm hạ nghèo khó thể hiện qua thái độ coi thường tiền bạc vật chất để sống siêu thoát giống như Người. Vì “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì” (Mt 16,26). Những ai sẵn sàng nhường cơm sẻ áo cho những người nghèo khổ bất hạnh… cũng được kể đã làm cho chính Người: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Khi chúng ta quảng đại chia sẻ của cải mình có cho người khác, thì Thiên Chúa cũng sẽ ban lại ân sủng nhiều hơn gấp bội cho chúng ta như lời Chúa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em bằng cái đấu đủ lượng đã dằn đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng cái đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng cái đấu ấy” (Lc 6,38).

- Bước theo Đức Giê-su hôm nay đòi chúng ta phải bỏ mình mỗi ngày trong suốt cuộc đời: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo tôi”. Mỗi người chúng ta đều được Chúa kêu gọi hãy từ bỏ lòng tham của cải bất chính, bỏ đi thói ham hưởng thụ khoái lạc… để được thuộc về Chúa. Hãy loại trừ lối sống đạo vụ hình thức bề ngoài, đọc kinh dự lễ theo thói quen mà thiếu xác tín, thiếu tâm tình mến Chúa, thiếu nhiệt tình làm chứng cho Chúa. Mỗi người hãy luôn quên mình để sống vị tha bác ái noi gương Đức Giê-su, hầu nên môn đệ thực sự của Người và chu toàn được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, giúp nhiều người nhận biết tin yêu Chúa để được gia nhập vào Nước Trời và được hưởng hạnh phúc đời này và đời sau.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin tha thứ cho những lần lẽ ra con phải mở lòng giúp đỡ tha nhân đang cần trợ giúp, nhưng vì ích kỷ, nên con đã bỏ qua không làm. Xin tha thứ cho những lần lẽ ra con phải sẵn lòng hy sinh cho anh em, nhưng vì sợ bị phiền hà, nên con đã cố tình nhắm mắt làm ngơ. Xin tha thứ cho những lần lẽ ra con phải quảng đại giúp đỡ một người bạn thân đang cần được trợ giúp, nhưng con lại so đo tính toán, và đã khéo léo từ chối.

Lạy Chúa, xin tha thứ cho mọi lỗi lầm thiếu sót của con, và xin đổ tràn tình yêu bao dung của Chúa vào lòng trí con, để sau khi nghe lời Chúa dạy hôm nay, con quyết tâm sẽ dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu, hầu đến giờ chết, khi bị mất hết tiền bạc, con sẽ được Chúa đón nhận vào Thiên đàng hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa. Amen.

 

GOSPEL (Mk 10:17-30):

As Jesus was setting out on a journey, a man ran up,
knelt down before him, and asked him,
“Good teacher, what must I do to inherit eternal life?”
Jesus answered him, “Why do you call me good? 
No one is good but God alone.
You know the commandments: You shall not kill;
you shall not commit adultery;
you shall not steal;
you shall not bear false witness;
you shall not defraud;
honor your father and your mother
.”
He replied and said to him,
“Teacher, all of these I have observed from my youth.”
Jesus, looking at him, loved him and said to him,
“You are lacking in one thing.
Go, sell what you have, and give to the poor
and you will have treasure in heaven; then come, follow me.”
At that statement his face fell,
and he went away sad, for he had many possessions.

Jesus looked around and said to his disciples,
“How hard it is for those who have wealth
to enter the kingdom of God!” 
The disciples were amazed at his words.
So Jesus again said to them in reply,
“Children, how hard it is to enter the kingdom of God! 
It is easier for a camel to pass through the eye of a needle
than for one who is rich to enter the kingdom of God.” 
They were exceedingly astonished and said among themselves,
“Then who can be saved?”
Jesus looked at them and said,
“For human beings it is impossible, but not for God. 
All things are possible for God.”
Peter began to say to him,
“We have given up everything and followed you.” 
Jesus said, “Amen, I say to you,
there is no one who has given up house or brothers or sisters
or mother or father or children or lands
for my sake and for the sake of the gospel
who will not receive a hundred times more now in this present age:
houses and brothers and sisters
and mothers and children and lands,
with persecutions, and eternal life in the age to come.”

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

CÂU CHUYỆN HÀNG TUẦN

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

HẠT GIỐNG THẦM LẶNG 

Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu loan báo về ngày cánh chung. Đó là ngày “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.” (Mc 13, 26) Là ngày Chúa Giêsu lại đến để ban thưởng cho những ai đã sống cho Tin mừng.

Cuộc sống có vay có trả, sống tử tế với mọi người thì mọi người sẽ sống tử tế lại với bạn. Và cho dù không được đối đãi lại tử tế thì cũng hãy tử tế với họ. Hãy tự bản thân làm người tử tế, làm người hạnh phúc để mang niềm vui và hạnh phúc cho bản thân mình và cho người khác chứ không phải vì người khác đáp ứng nhu cầu của bản thân mình.

Thế giới hôm nay đang sống trong vòng xoáy của quyền lực và tiền tài. Nếu như chúng ta không tỉnh táo, chúng ta sẽ sống buông thả theo lối sống phóng túng và hưởng thụ. Thế nhưng, ai là người kiên vững đến cùng người đó sẽ chiến thắng. Trước nhất là chiến thắng chính bản thân mình. Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất.

Các thánh tử đạo Việt Nam được Giáo hội mừng kính hôm nay, chính là những người kiên cường đến cùng trong niềm tin. Niềm tin luôn gắn liền với tình yêu. Niềm tin mà không có tình yêu cũng chỉ là niềm tin chết. Niềm tin phải nở hoa trong tình yêu. Tình yêu cũng chính là kết quả của niềm tin.

Trước đây, tôi mang trong mình một khát khao vĩ đại là biến đổi thế giới bằng sự nhiệt tình, năng nổ của mình. Tôi xả thân bản thân để mang lại điều vĩ đại cho thế giới. Nhưng cuộc sống đã rèn luyện trở nên người mang khát khao vĩ đại đó trong sự hy sinh lặng lẽ mỗi ngày. Một sự hy sinh thầm lặng mà chả ai quan tâm hay biết đến. Một sự cho đi yêu thương cũng thầm lặng như vậy, chả mong ai nhớ ai quên, chả mong ai biết ai đáp đền, như một giọt nước nhỏ nhoi giữa đại dương mênh mông. Chưa bao giờ tôi lại muốn mình trở nên bé nhỏ như vậy, có lẽ tôi đã già quá rồi chăng?

Kỳ lạ thật đấy, khi người ta chưa có gì thì người ta muốn mình trở nên vĩ đại. Khi đã sở hữu những gì mình khổ luyện được, người ta lại muốn mình trở nên bé nhỏ, lặng lẽ và âm thầm. Người già là người âm thầm đứng nhìn cuộc sống và kiên cường trước mọi sóng gió ập đến. Người trẻ là người được bước đi trên lưng người già nhưng lúc nào cũng đòi bước xuống để tự đi, đến khi muốn nhìn lại thì đã muộn.

Các thánh tử đạo Việt Nam hôm nay, là những người may mắn hơn tất cả chúng ta, vì các Ngài được Thiên Chúa yêu thương trao tặng triều thiên tử đạo. Ân ban đó là hồng phúc Chúa tặng ban cho sự hy sinh của tình yêu và niềm tin bằng chính mạng sống của các ngài. Còn chúng ta, mỗi người hôm nay, ai cũng có sự hy sinh thầm lặng của mình. Nhưng điều quan trọng là có biết sự hy sinh đó trở nên hạt giống âm thầm làm trổ sinh tình yêu hay không mà thôi.

Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi và yếu đuối, con cũng là kẻ nhát hèn. Con không có được niềm tin kiên vững như các thánh tử đạo hôm nay dám dùng chính mạng sống minh chứng cho niềm tin vào Ngài. Nhưng con có một trái tim chân thành và một niềm tin nhỏ bé. Con tin vào Thiên Chúa của con. Con cũng tin vào ơn cứu độ của Ngài. Con tin Ngài là cùng đích con bước đến và luôn bảo vệ, đồng hành với con trên mọi nẻo đường. Có Ngài là có tất cả, niềm tin, tình yêu và sức mạnh, sự bảo vệ, chở che. Cảm ơn Ngài đã yêu con và cứu độ con. Con muốn mình trở nên là hạt giống thầm lặng giữa lòng thế giới hôm nay...

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang 

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CHO ĐI BẰNG TẤM LÒNG 

Người Việt Nam có câu: “Của cho không bằng cách cho” bởi giá trị của món quà không chỉ nằm ở bản thân món quà mà còn ở cách thức trao tặng. Một món quà, dù lớn hay nhỏ, nếu được trao bằng tình cảm chân thành, sự tôn trọng và chu đáo, sẽ mang ý nghĩa sâu sắc hơn rất nhiều so với việc tặng một cách hời hợt, qua loa hoặc không xuất phát từ tấm lòng.

Chúa Giê-su, khi thấy bà góa nghèo dâng tất cả những gì mình có cho Thiên Chúa – dù đó là một số tiền rất nhỏ – đã dùng đó để minh hoạ cho các môn đệ rằng sự hy sinh của bà giá trị hơn những lễ vật phong phú của những người giàu, bởi bà đã “dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.” Vì trong mắt Thiên Chúa, ý nghĩa của sự dâng hiến không nằm ở con số, mà là sự chân thành và tấm lòng biết chia sẻ.

Đáng tiếc thay, nhiều người vẫn nghĩ rằng chỉ khi giàu có mới có thể giúp đỡ cha mẹ, và chỉ khi dư giả mới làm bác ái cho tha nhân. Trên thực tế, công đức trước mặt Chúa có thể nằm trong từng ly nước, từng chén gạo, hay một cuộc viếng thăm, vì khi chúng ta phục vụ tha nhân, là chúng ta đang phục vụ chính Chúa. Một người bạn của tôi trước khi qua đời đã để lại một hộp tiền với dòng chữ: “Tiền nhịn hút thuốc trong các mùa Chay để giúp những người nghèo.” Số tiền ấy tuy không nhiều, nhưng chứa đựng một tấm lòng yêu thương và xót thương sâu sắc dành cho người đói khổ.

Ở miền quê, tôi vẫn nhớ hình ảnh một bà cụ khệ nệ ôm nải chuối đến biếu cha. Đó là hình ảnh của bà ôm cả tấm lòng dành cho cha, một món quà giản dị nhưng vô cùng quý giá. Từ khi cây chuối ra hoa, ra buồng, bà đã nghĩ tới việc để dành nải chuối đó cho cha. Bà đã nâng niu nải chuối ngon nhất để mang biếu cha – đó là cả tấm lòng chân thành và thật đáng trân trọng!

Hình ảnh ấy làm tôi nhớ tới một bà cụ khác. Ngày Tết, bà đến chúc tuổi tôi và nói: “Nhà con có cây xoài ra trái, con để dành trái xoài to nhất để mang Tết cha. Nhưng đến ngày 28 Tết thì trộm đã hái mất rồi! Con chẳng còn gì để biếu cha.” Nghe cũng vui, nên tôi nói với bà: “Bà đã dành cho cha cả tấm lòng rồi. Xin cám ơn bà.”

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cho đi đừng bằng thước đo vật chất, mà bằng tấm lòng yêu thương và sự tín thác vào Chúa. Điều quý giá trong mắt Chúa không phải là số lượng, mà là sự biết sẻ chia dù nhỏ bé nhưng xuất phát từ trái tim đầy tình yêu thương và lòng bác ái.

Thiên Chúa nhận lễ vật từ tấm lòng, như Ngài đã thấy lòng thành của Abel và vui nhận lễ vật của ông. Ngài khinh dể lễ vật của Cain vì trong đó không có tấm lòng thành. Bởi Ngài là Đấng thấu suốt tâm can, nên Ngài sẽ chúc phúc cho những lễ vật dù nhỏ bé nhưng gói trọn tình yêu.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương Chúa Giê-su, luôn sống chạnh lòng thương xót anh em để sẵn lòng quảng đại giúp đỡ những ai đang khổ đau, và cùng chung tay xây dựng giáo xứ, giáo hội ngày một tốt đẹp hơn. Amen.

 

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CÁT BỤI HƯ VÔ

Bão Yagi (được định danh là bão số 3) đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng ở nhiều quốc gia tại Đông Nam Á và Trung Quốc. Cơn bão đổ bộ vào đầu tháng 9 năm 2024 với sức gió mạnh, đặc biệt ảnh hưởng nặng nề đến miền Bắc Việt Nam, Trung Quốc, Myanmar, và Philippines.

Tại Việt Nam, bão Yagi đã làm ít nhất 292 người thiệt mạng, với hàng ngàn người khác bị thương và mất tích. Các khu vực chịu ảnh hưởng nặng nhất bao gồm Quảng Ninh, Hải Phòng, và các tỉnh miền núi phía Bắc. Bão gây ngập lụt trên diện rộng, phá hủy hơn 231.000 ngôi nhà, làm hư hại hơn 190.000 ha lúa và hàng chục ngàn ha hoa màu. Tổng thiệt hại ước tính lên đến khoảng 1,6 tỷ USD.

Nhìn vào những cái chết tức tưởi của nhân sinh và sự hoang tàn đổ nát của vạn vật ta mới thấy cuộc đời này thật mong manh như hoa sớm nở chiều tàn để rồi trở về với cát bụi hư vô. Đây cũng là những cảm hứng cho sr Trầm Hương sáng tác bài hát đi vào lòng người với tựa đề “Cát Bụi Hư Vô”. “Cát bụi hư vô” là một bản nhạc đầy xúc động, thể hiện sự chiêm nghiệm về kiếp nhân sinh và sự mong manh của cuộc đời. Trong từng lời hát, có sự cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa và sự nhận thức về những hão huyền, mê đắm của cuộc đời trần thế. 

Bao năm lo toan trong cuộc đời,

Bao năm lênh đênh trên dòng đời

Nào có biết, nào có biết đâu giờ đây ta trở về cát bụi hư vô.

Lạy Chúa nhân từ, lạy Chúa nhân từ xin xót thương,

xin xót thương con nơi vưc sâu

Vì tháng năm qua trần thế hảo huyền

nhận chìm con trong mê đắm phù hoa.

Con người dễ lạc lối giữa những phù hoa của trần gian, những mê đắm mà chính bài hát đã nhắc: “Vì tháng năm qua, trần thế hão huyền nhận chìm con trong mê đắm phù hoa.” Chúng ta có thể bị cuốn vào những thú vui tạm bợ, những tham vọng quyền lực và giàu có. Chúng ta tìm kiếm, tranh đấu để có được những gì mình mong muốn, để rồi đến một lúc nào đó, lại phải đối diện với sự thật hiển nhiên: chúng ta chỉ là “cát bụi hư vô” giữa dòng đời.

Và khi nhìn lại, khi chúng ta “ra đi vĩnh biệt đời” liệu lòng mình có “an vui hay ngậm ngùi”? 

Nhưng xem ra, trong phận mỏng manh yếu đuối, khi lìa khỏi thế gian, chúng ta cũng mang theo những yếu đuối của phận người. Con người luôn yếu đuối, dễ vấp ngã trong cuộc sống, nên khi lìa đời, điều quan trọng nhất là được Chúa đón nhận, tha thứ và dẫn dắt linh hồn về nơi an nghỉ đời đời. Chính trong kinh nguyện Kitô giáo, chúng ta thường cầu xin: “Xin Chúa thương xót và tha thứ các lỗi lầm của họ.” 

Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương, Người hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người: “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:18). Khi chết, linh hồn mong mỏi được ơn cứu độ của Chúa, được thoát khỏi sự phán xét nặng nề bởi tội lỗi, và được dự phần vào niềm vui thiên quốc.

Tháng 11 là tháng mà người Công Giáo dành để cầu nguyện cho những người thân đã qua đời. Những người đã khuất rất cần sự hỗ trợ của những lời cầu nguyện, các Thánh lễ, và những việc lành phúc đức của chúng ta. Giáo Hội khuyến khích cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, đặc biệt trong các Thánh lễ: “Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên họ.”

Việc người sống làm những việc bác ái, hiến dâng các công việc tốt đẹp, cũng góp phần giúp linh hồn sớm được hưởng phúc lộc trên Thiên Đàng. Như thánh Phaolô dạy: “Nhờ lời cầu nguyện và những việc lành phúc đức của anh em, tôi hy vọng mình được cứu độ và đến nơi tôi mong muốn” (Pl 1:19).

“Bao nhiêu mộng ước, bao nhiêu vinh hoa” rồi cũng trở nên vô nghĩa khi ta đứng trước cánh cửa của sự sống đời đời. Điều duy nhất còn lại là tình yêu chúng ta đã dành cho Chúa và cho nhau. Chúng ta hãy xin Chúa thương xót những linh hồn đã ra đi và ban cho họ sự bình an vĩnh cửu. Đồng thời, hãy sống mỗi ngày với tình yêu, sự tha thứ, để chính chúng ta cũng sẽ được Ngài đón nhận khi cuộc đời này chấm dứt. Amen.

 

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH 

Hôm nay, chúng ta cùng nhau mừng lễ trọng kính các thánh nam nữ – những người đã đi trọn con đường nên thánh và hiện đang chiêm ngắm dung nhan Chúa trong vinh quang Thiên Quốc. Tuy nhiên, sự nên thánh không phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả một chặng dài của sám hối, của ăn năn và trông cậy vào Chúa. Họ có một khao khát nên thánh, dù vẫn yếu đuối trong thân phận con người, nhưng nhờ tin vào lòng thương xót của Chúa, họ đã trỗi dậy để canh tân, để sửa đổi nhờ ân sủng của Thiên Chúa. 

Thánh Phê-rô là một điển hình. Phêrô được Chúa chọn gọi từ một ngư dân trở thành người lãnh đạo các tông đồ. Phê-rô luôn có lòng yêu mến Chúa và một khao khát mạnh mẽ để đi theo Ngài, nhưng con người của ngài cũng bộc lộ những yếu đuối mỏng giòn. Phêrô từng tỏ ra sợ hãi và cố ngăn cản Chúa lên Giê-ru-sa-lem đã bị Chúa khiển trách là Satan hãy lui ra đằng sau. Phê-rô cũng từng ba lần chối Chúa khi đối diện với sự bắt bớ và nguy hiểm (x. Mt 26, 69-75).

Tuy nhiên, điều tuyệt vời là Phêrô không để những yếu đuối của mình đẩy ngài xa Chúa. Sau khi nhận ra sai lầm, thánh nhân ăn năn khóc lóc và trở lại càng vững tin vào Chúa hơn. Chính nhờ lòng trung tín và lòng ăn năn của thánh nhân mà Chúa Giêsu đã trao cho thánhnhân sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21, 15-17).

Như vậy, sự khao khát nên thánh không đòi hỏi sự hoàn hảo ngay từ đầu. Con người có thể vấp ngã, nhưng chính lòng ăn năn và sự trở lại, sự trông cậy vào lòng thương xót của Chúa mới là con đường dẫn đến sự thánh thiện.

Thế nên, khi Chúa Giê-su rao giảng về con đường nên thánh qua Tám Mối Phúc Thật, (Mt 5,1-12) Ngài mời gọi  mỗi người chúng ta thực hành trong đời sống để trở thành thánh nhân giữa đời. Sự nên thánh không phải là làm những điều gì cao xa, nhưng chỉ cần sống yêu thương, tha thứ, hiền lành và xót thương với những người xung quanh.

Điều quan trọng chính là sự từ bỏ và tín thác vào lòng thương xót Chúa. Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ (Mt 5,3), chính là mối phúc đầu tiên dành cho những ai đã sống sự từ bỏ ấy, không chỉ về của cải vật chất mà còn về chính bản thân mình, để trở nên công cụ của tình yêu và ơn cứu độ Thiên Chúa. Và  trong hành trình nên thánh, lòng thương xót là dấu chỉ của tình yêu vô điều kiện mà chúng ta trao cho tha nhân. Các thánh, đặc biệt là Mẹ Têrêsa Calcutta, đã sống điều này một cách cụ thể, qua việc phục vụ những người nghèo khổ, đau yếu và bị bỏ rơi.

Tám Mối Phúc Thật không chỉ là con đường của các thánh, mà còn là con đường mỗi người chúng ta được mời gọi bước theo. Nguyện xin Chúa, qua lời cầu bầu của các thánh, ban cho chúng ta ơn khôn ngoan và sức mạnh để dấn bước trên con đường thánh thiện, hầu chúng ta cũng được dự phần vào vinh quang Nước Trời. Amen.

 

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG

Lời Chúa Chúa Nhật 31 thường niên Năm B mời gọi chúng ta là người ky-tô hữu phải biết sống yêu thương. Yêu thương là lẽ sống của người tín hữu. Yêu thương cũng là nét đẹp của người tín hữu. Yêu thương là dấn thân theo gương Thầy Chí Thánh Giê-su. Ngài là Thầy, là Chúa mà còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài đi đến tận cùng của tình yêu là dám chết cho người mình yêu, và Ngài đã nói rằng: “Không có tình yêu nào cao quý hơn, tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”.

Hôm nay Chúa nói với người biệt phái rằng: “Ông không còn xa Nước Trời bao nhiêu”. Từ ngữ không còn xa như muốn nói tình trạng của ông chưa thực sự sống yêu thương. Ông hiểu luật. Ông biết luật mến Chúa - yêu người, nhưng cái biết còn phải đi đến thực hành mới vào được Nước Trời. Vì yêu là phải dấn thân, phải hy sinh, phải phục vụ. Yêu là phải quên mình như Đức Ky-tô đã yêu thế gian và dám thí mạng sống mình cho người mình yêu.

Đây là tình yêu “Agape”, một tình yêu cao cả nhất, vượt trên cảm xúc để có thể yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình. Tình yêu của Đức Ky-tô là tình yêu mà ai đó nói rằng: “bạn cứ yêu đi thì sẽ biết mình phải làm gì?” Do đó, là người ky-tô hữu Chúa cũng bảo: “không phải ai nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu”, điều quan yếu là thực hành những điều Chúa dạy mới được ở bên Chúa trong Nước Trời.

Nhưng xem ra nhiều người ky-tô hữu cũng “không còn xa nước trời bao nhiêu”, vì ở đâu đó vẫn có những người chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà bỏ qua nhu cầu, nỗi đau của người khác, như khi không chia sẻ thời gian, của cải, hay tình yêu cho những người xung quanh, ta đang sống trái ngược với giới răn yêu thương. Ở đâu đó ta vẫn thấy những hành vi gian lận, tham nhũng gây nên những bất công, chia rẽ và hận thù. Và đôi  khi chính bản thân ta chưa sống trong tình liên đới chia sẻ với người nghèo đói, người khổ đau, bệnh tật và lại còn bè phái, ghen tỵ, dèm pha, nói xấu nhau. . .

Ky-tô giáo là đạo của yêu thương. Tình yêu là giới răn hàng đầu trong mọi giới răn. Mọi lề luật phải hướng về tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Khi có tình yêu thì việc giữ giới răn của Chúa sẽ không còn khó khăn nhưng là hạnh phúc vì được sống trong ân nghĩa với Ngài. Đây cũng là điều mà Chúa đã khẳng định với chúng ta: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng . Vì ách của tôi êm ái, và gánh của tôi nhẹ nhàng”.

Ước gì từng người chúng ta biết tuân giữ và thực hành giới luật yêu thương để Nước Chúa ở trong chính cuộc đời chúng ta và chúng ta luôn xứng đáng là môn đệ của Ngài. Amen

 

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CHỈ CÒN MỖI MÌNH NGÀI

Trong nhiều lời cầu nguyện trong Tin mừng, có lẽ lời cầu nguyện mà tôi thích nhất chính là lời cầu nguyện của anh mù hôm nay: “Lạy ông Giêsu, con Vua Đavid, xin dủ lòng thương tôi.” (Mc 10, 37)

Lời kêu gọi thảm thiết này ở tận đáy lòng của niềm tin và sự thống khổ. Nỗi thống khổ của thân thể không có ánh sáng sẽ cơ cực đến dường nào, và niềm tin vào Đấng duy nhất có thể chữa mình được sáng. Nỗi đau của anh và niềm tin của anh đã cứu chữa anh, anh đã hoàn toàn được toại nguyện. Có lẽ anh là người hạnh phúc nhất vì lời thỉnh nguyện của mình được Thiên Chúa chấp nhận.

Chính niềm tin tưởng mãnh liệt và tuyệt đối của anh đã được Thiên Chúa chấp nhận, Thiên Chúa đã đáp lại niềm tin của anh vì anh đã đặt trọn niềm phó thác nơi Ngài.

Niềm tin quả thật khó hơn cả mạng sống. Nhiều khi chúng ta muốn tin lắm nhưng không thể. Tin người có vẻ dễ, dễ bị lừa vì tin, nhưng chúng ta vẫn tin, nhưng tin Thiên Chúa lại khó vô cùng. Tin Thiên Chúa là Đấng luôn ở trong thinh lặng và nói với con người qua từng biến cố khiến người ta phải tìm tòi, dò dẫm. Nhưng không sao cả, Thiên Chúa luôn mãi là Thiên Chúa của tình yêu thương và lòng quảng đại. Ngài luôn ở bên chúng ta, cứu giúp chúng ta luôn mãi, vấn đề là ở chúng ta chứ không phải của Ngài.

Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người, Ngài yêu thương thì mới sáng tạo và cứu chuộc, nhưng Ngài muốn chúng ta sống một cuộc sống có ý nghĩa bằng cách sống vâng phục thánh ý Ngài chứ không phải sống theo ý muốn của chúng ta.

Thánh ý Thiên Chúa nghe ra rất khó, nhưng sâu thẳm của thánh ý đó cũng chỉ là mong muốn cho con người được cứu độ, được hạnh phúc và được sống mà thôi.

Thiên Chúa yêu thương chúng ta như vậy nhưng tại sao chúng ta lại không thể tin Ngài được. Tin Thiên Chúa thực sự rất khó, tin người thì dễ bị lừa nhưng vẫn cứ tin, tin Thiên Chúa thì được cứu độ mà sao chúng ta không tin.

Vì Thiên Chúa mầu nhiệm quá, Ngài cao cả quá, Ngài rất gần nhưng mà cũng rất xa, Ngài yêu thương, nhân hậu nhưng cũng rất nghiêm khắc. Thú thật chẳng phải con người không muốn tin Ngài mà chỉ vì niềm tin tiên vàn là một ân ban, chứ không phải ai muốn thủ đắc là đều được.

Chúa ban ơn và chúng ta đáp trả. Bạn đã đáp trả niềm tin vào Thiên Chúa như thế nào? Tài sản của chúng ta giá trị làm sao, đó chính là niềm tin, lòng mến của chúng ta với Thiên Chúa. Niềm tin ấy phải được thể hiện ra bằng đời sống bác ái, đó mới chính là niềm tin thật.

Lạy Chúa, những lúc tối tăm, đau khổ, bệnh tật, thú thật con chỉ còn mỗi Chúa. Chỉ còn mỗi Ngài là niềm tin, là điểm tựa, là chỗ dựa duy nhất của con. Thế nhưng, đôi khi con cảm thấy niềm tin của mình yếu ớt như tim đèn leo loét... Không ít khi con kêu van Ngài cứu chữa con như anh mù hôm nay với tận sâu thẳm cõi lòng. Và sự thật là thế... Lạy Ngài là con Vua Đavid, xin dủ lòng thương con.

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CÓ CHÚA TRONG CON 

Tin mừng hôm nay, lại một lần nữa dạy cho chúng ta bài học về tình yêu thương. Lý thuyết này có lẽ chúng ta nghe đã quá quen thuộc, đến nỗi không có gì mới mẻ. Thế nhưng, để sống được lý thuyết đó, không chỉ ngày một ngày hai mà là cả cuộc đời. Đôi khi có người đến cuối đời vẫn chưa học hết bài học vể tình yêu thương.

“Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó không mất phần thưởng đâu.” (Mc 10, 42)

Có phải câu Lời Chúa này chúng ta đã nghe đến thuộc lòng, thế nhưng có ai dám khẳng định mình đã hành động đến thuộc lòng. Cũng không thể phán xét ai, nhưng thú thực nhiều người họ rất nghèo nhưng trái tim lại rất nhân hậu, họ cho đi mà không hề tính toán thiệt hơn. Và nhất định Thiên Chúa sẽ ân ban cho họ nhiều phần thưởng vô giá. Người không có của cải thì họ lại có trái tim, có lời cầu nguyện. Họ cầu xin ơn bình an và hạnh phúc đến cho mọi người. Có người quá giàu, nhưng chỉ biết sống ích kỉ mà không quan tâm đến tha nhân chung quanh còn biết bao nhiêu người đói khổ lầm than.

Tất nhiên, chúng ta không thể nào lo hết cho tất cả mọi người, nhưng cái gọi là chia sẻ, cái gọi là cho đi. Tấm lòng đó, cao cả và giá trị hơn tất cả.

Hôm nay là ngày khánh nhật truyền giáo. Giáo hội mong muốn mọi người mang tình yêu thương của mình đến chia sẻ mọi vui buồn hạnh phúc của tha nhân, để qua đó tha nhân cảm nhận được tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

Điều đáng sợ nhất của nhân loại hôm nay, là một tiềm thức vắng bóng Thiên Chúa. Người ta sống như Thiên Chúa không tồn tại. Họ cậy dựa vào tiền tài, danh vọng, sắc đẹp… mà bỏ quên Thiên Chúa và tha nhân. Thiên Chúa chúng ta có vắng bóng không? Ngài ở đâu giữa những lúc chúng ta tối tăm, đau khổ, hoạn nạn? Thưa, Ngài vẫn ở đây và luôn mãi hiện diện, thinh lặng một cách nhiệm mầu nhưng luôn che chở và thương yêu, bảo vệ và gìn giữ. Bổn phận của chúng ta là cần phải sống chứng nhân cho mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính cuộc đời ta, nhờ thấy và cảm nhận mà họ tin…

Lạy Chúa, Ngài mời gọi con sống minh chứng tình yêu dành cho Ngài. Con là kẻ hạn hẹp và tội lỗi, con làm gì có thể chu toàn được trọng trách cao cả này. Nhưng tin tưởng vào sức mạnh của Thiên Chúa, con cố gắng mỗi ngày sống bình an, hạnh phúc, nhân hậu và kiên trì, lắng nghe, thấu hiểu và chia sẻ ngay cả những lúc đau khổ, khó khăn, bệnh tật nhất… chỉ để mọi người thấy rằng có Chúa trong con. Con chỉ ước một ai đó có thể nhìn thấy Chúa trong con mà cố gắng sống hạnh phúc, bình an…

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CHẲNG CÒN HỎI VÌ SAO 

Nếu như bạn đang rơi vào trong một hoàn cảnh bi thương nhất của sự thất vọng, lo lắng, chán chường, hoài nghi… thì có lẽ bài Tin mừng hôm nay là một niềm an ủi lớn lao: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” (Mc 10, 30)

Chúa Giêsu, Ngài luôn kêu gọi chúng ta “đừng sợ”. Nhưng thú thật đứng trước những bất trắc của cuộc sống làm sao mà không sợ. Người nào không sợ người đó chỉ có thể là thánh nhân hoặc người vô cảm hoặc là nói dối. Con người luôn nhỏ bé, hạn hẹp trước vũ trụ. Thiên Chúa đặt để con người vào trong vũ trụ này và trao quyền cho con người sử dụng. Nhưng Ngài vẫn là Người điều khiển vũ trụ. Thế nên, trước mọi thay đổi của nó, con người không thể nào khuất phục được.

Qua đó, chúng ta nhìn nhận với nhau cách chân thành về giới hạn của nhân loại, để mà quay về với Đấng Tạo hóa, Ngài mới là Chủ nhân của thế giới này. Chúng ta cần có thái độ tin tưởng, phó thác tất cả cho Ngài. Niềm tin đặt đúng chỗ là niềm tin vĩ đại nhất. Con người hay có xu hướng đặt niềm tin vào thế lực của vật chất, tiền tài, danh vọng, tài năng… Nhưng tất cả những thứ đó chỉ là vô thường, không có gì bền vững, không có gì tồn tại vĩnh cửu cả.

Thiên Chúa là Cha, là Mẹ chúng ta. Ngài biết ta cần gì. Ngài biết điều chúng ta cầu xin hay nghĩ đến, nhưng Ngài biết điều nào là cần thiết cho chúng ta, điều nào mang lại lợi ích cho chúng ta. Thế nên, hãy tin tưởng một cách vô điều kiện vào Thiên Chúa, Ngài cũng sẽ yêu chúng ta vô điều kiện như vậy.

Nói đến niềm tin trong những lúc bình an thì rất dễ nhưng trong những lúc ốm đau, bệnh tật và thử thách thì khó vô cùng. Làm sao có thể vững niềm tin trước những cơn giông bão của cuộc đời, trước những thiên tai, hạn hán, chiến tranh, đói kém, mất mùa… Làm sao có thể giữ vững niềm tin, có thể tin tưởng tuyệt đối vào Đấng quyền năng có thể cứu mình thoát khỏi những tai ương đó không phải là chuyện dễ dàng nếu chưa muốn nói là vô cùng khó khăn.

Thiên Chúa thử thách niềm tin của chúng ta như thử vàng trong lửa. Đơn giản chỉ vì Ngài muốn chúng ta yêu Ngài đúng nghĩa. Yêu Thiên Chúa đúng nghĩa chính là sự vâng phục đến trọn vẹn thánh ý Ngài, là sự phó thác đến tuyệt đối cả cuộc đời ta cho Ngài. Thôi thì, chả phải Ngài là Đấng quyền năng và chí thánh hay sao. Chả phải Ngài là Thiên Chúa của chúng ta hay sao? Chả phải Ngài là Chủ của chúng ta hay sao? Thế nên, Ngài muốn làm gì, Ngài muốn thế nào trên tác phẩm của Ngài, hãy để Ngài tự tô vẽ đi...

Lạy Chúa, con học cách yêu Ngài, con học cách tin tưởng tuyệt đối nơi Ngài, con học cách phó thác tuyệt đối nơi Ngài, nhưng thú thực, con học hoài không được. Không phải vì con ích kỉ, nhưng chỉ tại con kém lòng tin, con kém tình yêu, con kém sự trông cậy. Xin ban thêm lòng mến cho con, xin ban thêm đức cậy cho con, xin ban thêm niềm tin cho con để con có thể bình an ở yên trong lòng bàn tay che chở của Ngài mà chẳng còn hỏi vì sao....

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Songs of Comfort

8 Catholic Church Songs

Kinh Lạy Cha (tiếng Anh)

Kinh Kính Mừng (tiếng Anh)

Kinh Tin Kính (tiếng Anh)

ANRÊ DŨNG LẠC-Điện thoại (402) 423-2005 &(402) 937-5699

9210 1St Lincoln, NE 68526

ANRÊ DŨNG LẠC
9210 1St

Lincoln, NE 68526

Điện thoại (402) 423-2005 &(402) 937-5699
Email: joseph@andrewdunglac.org
Chúng tôi:

"Sống và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống".