HOME
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Cầu cho các gia đình đang gặp khủng hoảng.
Chúng ta hãy cầu nguyện để các gia đình tan vỡ có thể tìm ra phương thuốc chữa lành vết thương của họ thông qua sự tha thứ, tái khám phá những món quà của nhau, ngay cả trong sự khác biệt của họ.
For families in crisis.
Let us pray that broken families might discover the cure for their wounds through forgiveness, rediscovering each other’s gifts, even in their differences.

HIỆPTHÔNG

25/3: Lễ Truyền Tin - Năm C -

Sự Vâng Phục Mang Lại Ơn Cứu Độ Cho Người 

Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để quyết định mọi sự; Nhưng khi chúng ta quyết định chọn điều gì, thì chúng ta phải nhận hậu quả về những quyết định mà chúng ta đã chọn lựa. Quả thật, thói quen của con người là không muốn phải vâng lời ai, muốn tự mình có thể quyết định mọi sự việc. Đọc những chương đầu của Kinh Thánh, chúng ta thấy trong cuộc cám dỗ đầu tiên tại Vườn Địa Đàng, con rắn gian manh biết Bà Evà không muốn vâng phục Thiên Chúa, nên cám dỗ Bà ăn trái cây “biết lành biết ác” mà Thiên Chúa đã cấm không được ăn. Hậu quả của sự bất phục tùng là ông bà mất nghĩa cùng Thiên Chúa, và truyền lại tội Tổ Tông cho con cháu.

Các bài đọc hôm nay tập trung trong việc vâng phục hay không vâng phục Lời Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, mặc dù đã được lần đầu tiên Isaiah truyền chỉ phục tùng một Thiên Chúa, nhưng vua Akhat của Judah vẫn bất chấp sang cầu viện Ai-cập. Hậu quả là nước mất nhà tan, từ vua đến dân bị lưu đày qua Babylon. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái so sánh các lễ vật đền thờ của Cựu Ước với sự vâng phục của Đức Kitô, và đưa ra kết luận: Thiên Chúa trân quý sự phục tùng của Đức Ki-Tô hơn ngàn vạn chiên, và cái chết của Ngài trên Thập Giá có sức mạnh xóa sạch mọi tội lỗi và mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong Phúc Âm, lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin đã bắt đầu kỷ nguyên cứu độ hay bình minh của ơn cứu độ: Chúa Thánh Thần đã rợp bóng trên Mẹ, và Hài Nhi Giêsu, Con Một của Thiên Chúa, đã hình thành trong cung lòng Mẹ. Từ đó, Mầu Nhiệm Nhập Thể đã được khai sinh và mang lại niềm hy vọng cứu độ cho nhân loại. “Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người- và ở cùng chúng ta”- Kinh Truyền Tin đã nhấn mạnh như thế.

Kính thưa, để hiểu rõ việc Đức Maria được truyền tin để làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể và để “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, chúng ta cùng nhau lắng nghe chuyện về Hạt Giống và Vườn Ươm sau đây.

Hãy hình dung một hạt giống nhỏ bé, nằm yên trong lòng đất. Hạt giống ấy mang trong mình tiềm năng to lớn, khả năng nảy mầm thành một cây xanh tươi tốt, đơm hoa kết trái. Nhưng hạt giống ấy cần một điều kiện thuận lợi, một môi trường lý tưởng để phát triển.

Vườn ươm chính là môi trường ấy. Người làm vườn cẩn thận lựa chọn đất, tưới nước, che chắn, tạo mọi điều kiện tốt nhất để hạt giống có thể đâm chồi. Tuy nhiên, hạt giống cần một điều quan trọng nữa, đó là sự vâng phục.

Hạt giống phải vâng phục quy luật của tự nhiên, quy luật của sự phát triển. Nó phải từ bỏ sự an toàn trong lớp vỏ cứng, để cho mầm non vươn lên. Nó phải tin tưởng vào sự chăm sóc của người làm vườn, tin tưởng rằng những giọt nước, ánh nắng sẽ nuôi dưỡng nó.

Đức Mẹ Maria cũng giống như hạt giống ấy. Mẹ mang trong mình Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ nhân loại. Nhưng Mẹ cần một môi trường, một tâm hồn thanh khiết, một tinh thần vâng phục mạnh mẽ để Đấng ấy có thể lớn lên.

Thật vậy, khi Sứ Thần Gabriel đến truyền tin, Mẹ đã đáp lại bằng tiếng “Xin Vâng” đầy khiêm nhường. Mẹ không nghi ngờ, không thắc mắc, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa. Mẹ đã từ bỏ ý riêng, chấp nhận mang lấy gánh nặng trách nhiệm, để Con Thiên Chúa có thể đến với thế gian.

Cũng như hạt giống cần sự vâng phục để nảy mầm, Đức Mẹ Maria cũng cần sự vâng phục để cưu mang Đấng Cứu Thế. Và cũng như vậy, mỗi người Ki-tô hữu chúng ta nói chung, những thành viên Legio Mariae nói riêng, cần học hỏi sự vâng phục, tin tưởng và lòng khiêm nhường của Mẹ, để trở thành những vườn ươm tốt lành, nơi hạt giống đức tin có thể nảy mầm và lớn lên, mang lại hoa trái tốt đẹp cho Giáo Hội và cho thế giới. Mẹ tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa, chắc chắn rằng không có gì là không thể đối với Chúa.

Cách đặc biệt, ngày lễ Truyền Tin hôm nay, có thể nói rằng chúng ta được mời gọi hãy biết cảm phục và biết ơn hai lời “Xin Vâng”: một là lời Xin Vâng của Đức Giê-su, hai là lời Xin Vâng của Đức Trinh Nữ Maria. Nhờ lời Xin Vâng của Đức Giê-su, Ngôi Lời đã Nhập Thể để ở cùng chúng ta để cứu độ chúng ta. Nhờ lời đáp Xin Vâng của Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ đã trở thành Mẹ của Đức Giê-su, Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Giáo Hội. Nhờ ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội mà Mẹ xứng đáng trở thành Mẹ Thiên Chúa. Nhờ sự vâng phục và tin yêu phó thác hoàn toàn cộng tác vào chương trình kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa của Đức Maria, toàn thể nhân loại được hưởng hạnh phúc và bình an đích thực nơi Chúa. Nhờ sự khiêm tốn để đáp lời Xin vâng của Đức Maria, Hoàng Tử Hoà Bình đã được nhập thể.

Chúng ta được mời noi gương đời sống của Đức Maria, thưa “xin vâng” trước lời ngỏ của Thiên Chúa, như Mẹ hoàn toàn thuộc về Chúa, dâng hiến tất cả cuộc đời cho Chúa, đi theo kế hoạch yêu thương cứu độ của Ngài. Chúng ta hôm nay qua việc dâng mình cho Đức Mẹ, cũng muốn đời mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và Đức Mẹ, giữa cuộc sống tục hóa, người ta loại trừ Chúa. Hơn nữa, qua các công tác tông đồ, chúng ta cũng có sứ mạng mang Chúa đến mọi nơi, yêu thương và phục vụ mọi người chung quanh. Như Mẹ Maria, chúng ta “xin vâng” với thánh ý Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.

Hôm nay, mầu nhiệm từ muôn đời đã được tỏ lộ; và Con Thiên Chúa sẽ trở thành Con Người, để qua việc Ngài chấp nhận điều thấp hèn, Ngài ban cho chúng ta điều cao trọng nhất. Xưa kia, Adam đã thất bại khi khao khát trở thành thần thánh, vì thế Thiên Chúa đã trở thành Người, để Adam có thể trở nên giống Thiên Chúa. Vậy nên, toàn thể tạo thành hãy hân hoan, và thiên nhiên hãy trao nhau niềm vui, vì Tổng Lãnh Thiên Thần đã kính cẩn đứng trước Đức Trinh Nữ và dâng lên Mẹ niềm vui thay cho nỗi buồn. Vậy nên, lạy Thiên Chúa của chúng con, Đấng đã vì lòng thương xót mà trở thành người phàm, vinh quang thuộc về Ngài đến muôn đời.

 

(Trích từ Phụng vụ Giờ kinh Byzantine cho Lễ Truyền Tin)

 

Vatican News -

ĐTC Phanxico: Bước qua Cửa Thánh để lại lên đường với đức tin và hiệp nhất trong đức ái

Sáng ngày 22/3/2025, từ bệnh viện Gemelli, Đức Thánh Cha đã gửi thư cho các đoàn hành hương Roma của giáo phận Napoli của Ý cũng như của nhiều giáo phận khác. Ngài bày tỏ niềm vui khi cảm nhận được sự hiệp nhất của các tín hữu với ngài và với nhau trong Chúa Giêsu.

Trong chương trình Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha có thêm một buổi tiếp kiến chung cho các tín hữu vào các sáng thứ Bảy. Các buổi tiếp kiến này được gọi là các Buổi Tiếp kiến Năm Thánh. Nhưng do tình trạng sức khỏe và phải nhập viện điều trị bệnh viêm phổi từ hơn một tháng nay, Đức Thánh Cha phải hủy các buổi Tiếp kiến Năm Thánh, cũng như các Buổi Tiếp kiến chung hàng tuần vào sáng thứ Tư.

Nhiều giáo phận đã lên chương trình tổ chức các cuộc hành hương về Roma trong Năm Thánh, trong đó có chương trình tham dự các buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha.

Thư của Đức Thánh Cha đã được Đức Hồng y Domenico Battaglia, Tổng Giám mục Napoli, đọc trong Thánh lễ cử hành tại Quảng trường Thánh Phêrô.

 

Bước qua Cửa Thánh để lại lên đường với đức tin và hiệp nhất trong đức ái

Sau khi chào các Giám mục và các tín hữu hành hương, Đức Thánh Cha nói với họ rằng chuyến hành hương "thể hiện sự hiệp nhất quy tụ anh chị em như một cộng đoàn xung quanh các Mục tử của anh chị em và Giám mục Roma, cũng như diễn tả cam kết đón nhận lời mời gọi của Chúa Giêsu để bước “qua cửa hẹp” (Mt 7,13)".

Ngài khẳng định rằng đây là cách diễn tả của tình yêu, bởi vì tình yêu “hợp nhất và giúp chúng ta cùng nhau phát triển”. Ngài giải thích: “Vì lý do này, mặc dù chúng ta đã đi những con đường khác nhau, tình yêu đã đưa anh chị em đến đây cùng nhau, tại mộ Thánh Phêrô, nơi anh chị em có thể lại lên đường với đức tin mạnh mẽ hơn và hiệp nhất hơn trong đức ái”.

 

Cám ơn lời cầu nguyện của các tín hữu

Đức Thánh Cha cũng bày tỏ: “Trong những ngày này, tôi cảm nhận được nâng đỡ bởi sự gần gũi của anh chị em, đặc biệt là qua những lời cầu nguyện mà anh chị em đã đồng hành cùng tôi. Vì vậy, ngay cả khi tôi không thể hiện diện trực tiếp giữa anh chị em, tôi vẫn bày tỏ niềm vui lớn lao của tôi khi biết rằng anh chị em được hiệp nhất với tôi và với nhau trong Chúa Giêsu, như một Giáo hội”.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha chúc lành và cầu nguyện cho các đoàn hành hương của các giáo phận và xin họ tiếp tục cầu nguyện cho ngài. (CSR_1084_2025)

 

Vatican News

 

Vatican News -

19/3: Lễ Trọng Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria 

Ở phương Tây, tài liệu tham khảo lâu đời nhất về việc tôn kính Thánh Giuse (Ioseph sponsus Mariae) liên quan đến ngày 19 tháng 3 xuất hiện vào khoảng năm 800 tại miền Bắc nước Pháp. Sau đó, từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 14, các tài liệu đề cập đến Thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria, ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Vào thế kỷ 12, quân thập tự chinh đã xây dựng một nhà thờ để tôn vinh ngài tại Nazareth. Nhưng phải đến thế kỷ 15, việc tôn kính Thánh Giuse mới lan rộng nhờ ảnh hưởng của Thánh Bernađinô thành Siêna, và đặc biệt là cha Jean Gerson (+1420), Chưởng ấn Nhà thờ Đức Bà Paris, người đã thúc đẩy việc thiết lập chính thức một lễ kính Thánh Giuse. Trước đó, tại Milan trong các cộng đoàn Dòng Augustinô, cũng như nhiều nơi ở Đức, đã cử hành những thánh lễ kính ngài. Phải đến năm 1480, với sự phê chuẩn của Đức Giáo hoàng Sixtus IV, lễ kính Thánh Giuse mới bắt đầu được cử hành vào ngày 19 tháng 3. Đến năm 1621, lễ này trở thành lễ buộc với sắc lệnh của Đức Giáo hoàng Grêgôriô XV. Năm 1870, Đức Giáo hoàng Piô IX tuyên bố Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ Giáo hội Hoàn vũ, và Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã thêm tên của ngài vào Lễ quy Rôma của Thánh lễ vào năm 1962. Gần đây, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phê chuẩn thêm bảy lời cầu mới trong Kinh Cầu Thánh Giuse, bao gồm: Đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế, luôn ân cần phục vụ Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ loài người, nơi nương tựa lúc gặp nguy nan, Đấng Bảo trợ kẻ lưu đày, Đấng Bảo trợ người sầu khổ và Đấng Bảo trợ kẻ túng nghèo.

Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô. Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1,16. 18-21. 24)

Phụng vụ cũng đề xuất đoạn Luca 2,41-51.

 

Người cha yêu dấu

Thánh Giuse đã dấn thân phục vụ cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Ngài chăm sóc Thánh Gia mà Thiên Chúa đã trao phó cho ngài. Từ khoảnh khắc truyền tin, ngài trở thành người tôi trung tận tụy, một người tôi tớ quan phòng khi chăm sóc Đức Maria và Hài Nhi mà Mẹ cưu mang trong cung lòng. Ngài bảo vệ Thánh Gia trong những lúc nguy nan. Đây chỉ là một vài trong số những đức tính của Thánh Giuse, giúp giải thích lý do tại sao Dân Chúa đặc biệt sùng kính ngài.

 

Người cha dịu dàng và yêu thương

Thánh Giuse đã dạy Chúa Giêsu cách bước đi bằng cách nắm tay Người. Chúa Giêsu nhận ra sự dịu dàng của Thiên Chúa nơi Thánh Giuse, Người Công chính. Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu nhìn thấy hình ảnh một người đầy đức tin, biết cách nhìn cuộc đời với niềm hy vọng, bởi giữa cơn bão tố, Chúa vẫn luôn vững tay lèo lái hành trình của cuộc sống.

 

Người cha vâng phục

Kế hoạch của Thiên Chúa đã được mặc khải cho Thánh Giuse qua những giấc mơ. Ngài luôn đáp lại cách mau mắn: trong biến cố Truyền Tin, khi vua Hêrôđê tìm cách sát hại Hài Nhi, và cả khi vua Hêrôđê băng hà. Thánh Giuse được Thiên Chúa hướng dẫn và ngài luôn vâng phục. Chúa Giêsu đã học được sự “vâng phục làm con” đối với Thiên Chúa nơi Thánh Giuse. Người đã học sự vâng phục từ cha mẹ mình.

 

Người cha biết đón nhận

Thánh Giuse được miêu tả như một người tôn trọng và nhạy bén, biết đặt phẩm giá và sự sống của Đức Maria lên trên tất cả, ngay cả danh dự của chính mình. Thánh Giuse đón nhận, tin chắc rằng mọi sự đều được Thiên Chúa quan phòng hướng dẫn. Ngài hiểu rằng cuộc sống được tỏ lộ theo mức độ mà con người chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa, và hòa hợp với kế hoạch ấy. Đây chính là tính hiện thực Kitô giáo: biết đón nhận Thiên Chúa trong lịch sử đời mình, và học cách đón nhận mọi người mà ta gặp gỡ.

 

Người cha sáng tạo và can đảm

Đối mặt với khó khăn, Thánh Giuse luôn khơi dậy những nguồn lực bất ngờ nhất. Ngài là người mà qua đó Thiên Chúa biểu lộ sự chăm sóc quan phòng ngay từ khởi đầu lịch sử cứu độ. Những thử thách không bao giờ làm cản bước lòng can đảm và kiên trì của người công chính và khôn ngoan này, người mà Thiên Chúa đã tin tưởng, cũng như Ngài đã tin tưởng vào Đức Maria. Chính nhờ đó, ta nhận ra nơi Thánh Giuse hình ảnh Đấng Bảo trợ Thánh Gia: trước hết là gia đình của ngài ở Nazareth, và ngày nay là Hội Thánh.

 

Người cha lao động

Công việc, được hiểu như sự tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, là điều mà Thánh Giuse đã thực hiện trong đời mình và đã dạy cho Chúa Giêsu. Công việc mang một ý nghĩa quan trọng để tạo ra một “bình thường mới,” nơi không ai bị loại trừ. Công việc của Thánh Giuse nhắc nhớ rằng Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, không coi thường lao động tay chân. Công việc bảo đảm phẩm giá con người.

 

Người cha trong âm thầm

Là một người cha, Thánh Giuse đã giới thiệu Con Thiên Chúa với những kinh nghiệm và thực tại của cuộc sống: không ràng buộc Người, không kìm hãm, không sở hữu, nhưng phát triển khả năng lựa chọn và tự do của Người, cuối cùng để Người rời khỏi nha. Lý lẽ của tình yêu luôn là lý lẽ của tự do: niềm vui của Thánh Giuse là hiến dâng chính mình. Ngài trở nên lu mờ, để vào một thời điểm, lùi bước, nhường chỗ cho Con mình tỏa sáng.

 

Lời nguyện

Kính chào Đấng Gìn giữ Đấng Cứu Thế,
Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.
Chúa đã trao Con Một của Chúa cho ngài;
Mẹ Maria đã tin tưởng vào ngài;
Chúa Kitô đã lớn lên thành người cùng với ngài.

Lạy Thánh Giuse diễm phúc,
xin cũng hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con
và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời.
Xin giúp chúng con đón nhận ân sủng,
lòng thương xót và lòng can đảm,
và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.

(Lời nguyện từ Tông thư Patris Corde của Đức Giáo Hoàng Phanxicô)

 

Vatican News

 

Vatican News -

ĐTC Phanxico cám ơn sáng kiến bác ái “Chén cơm” Mùa Chay của Giáo hội Hoa Kỳ

Trong lá thư được Cơ quan Cứu trợ Công giáo Hoa Kỳ chia sẻ với giới truyền thông hôm 14/3/2025, Đức Thánh Cha đã chúc mừng chương trình “Rice Bowl” của tổ chức này và bày tỏ lòng biết ơn với dịch vụ hỗ trợ những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất ở Hoa Kỳ cũng như ở nước ngoài.

Cơ quan Cứu trợ Công giáo là cơ quan cứu trợ và phát triển quốc tế chính thức của Giáo hội Công giáo tại Hoa Kỳ. Sáng kiến “Chén Cơm” là chương trình Mùa Chay thường niên của tổ chức dành cho các nỗ lực xóa đói giảm nghèo trên toàn cầu. Chương trình này đã gây quỹ được hơn 350 triệu đô la để hỗ trợ các nỗ lực xóa đói giảm nghèo trong và ngoài nước.

 

Cám ơn tín hữu Hòa Kỳ hỗ trợ người nghèo

Trong thư, Đức Thánh Cha gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến tất cả những người tham gia vào sáng kiến cao cả này cũng như lòng biết ơn của ngài đối với các tín hữu tại Hoa Kỳ, những người, thông qua dịch vụ này, đã hỗ trợ những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất trong và ngoài nước.

 

Đưa đức tin vào hành động

Đức Thánh Cha nói rằng trong 50 năm qua, trong “Mùa Chay Thánh, khi Giáo hội mời gọi chúng ta cầu nguyện, ăn chay và bố thí để chuẩn bị cho lễ Phục sinh”, chương trình Rice Bowl “đã cung cấp một cách cụ thể để người Công giáo làm việc bác ái khi họ tìm cách đưa đức tin của mình vào hành động”.

 

Phản ánh sự gần gũi, lòng trắc ẩn và tình yêu thương dịu dàng của Thiên Chúa

Trong thư Đức Thánh Cha lưu ý rằng “Khi chăm sóc người lân cận, chúng ta phải luôn nhớ rằng việc bác ái phải được trao tặng mà không có điều kiện hoặc giới hạn, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta trong dụ ngôn Người Samari nhân hậu. Khi làm như vậy, chúng ta phản ánh sự gần gũi, lòng trắc ẩn và tình yêu thương dịu dàng của Thiên Chúa, Đấng chăm sóc tất cả con cái của Người trong một gia đình nhân loại”.

 

Một gia đình nhân loại

Đại dịch Covid-19, Đức Thánh Cha viết thêm trong thư, “nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là thành viên của một cộng đồng toàn cầu, “tất cả trên cùng một con thuyền”, nơi mà vấn đề của người khác cũng là vấn đề của tất cả mọi người”.

“Với suy nghĩ này, chúng ta phải liên tục nỗ lực giúp người khác nhận ra rằng những thách thức nghiêm trọng hiện đang ảnh hưởng đến rất nhiều anh chị em của chúng ta, bao gồm chiến tranh, di cư cưỡng bức và nạn đói, đều liên quan đến tất cả chúng ta. Có lẽ chúng ta thậm chí có thể mời những người khác so sánh cuộc sống hàng ngày của họ với những người di cư và người nước ngoài đó, để họ có thể học cách hiểu rõ hơn về những trải nghiệm của họ và theo cách này, khám phá ra những gì Chúa đang yêu cầu chúng ta trong thời đại của chúng ta”.

 

Sáng kiến Rice Bowl

Sáng kiến Rice Bowl được Đức ông Robert Coll phát động vào năm 1975 như một nỗ lực địa phương tại Giáo phận Allentown, Pennsylvania, và đã trở thành một sáng kiếnquốc gia sau khi được giới thiệu tại Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 41 tại Philadelphia vào năm 1976, và sau đó, thông qua Cơ quan Cứu trợ Công giáo, được các giám mục Hoa Kỳ chấp nhận.

25 phần trăm số tiền quyên góp của sáng kiến được dành giúp các chương trình trong nước của Cơ quan Cứu trợ Công giáo, trong khi 75 phần trăm được dành giúp các chương trình ở nước ngoài. (OSV News 15/03/2025)

 

Vatican News

 

Vatican News -

25 ngàn tín hữu đến từ 100 quốc gia tham dự Năm Thánh Tình nguyện viên

Dự kiến sẽ có 25 ngàn người hành hương đến từ hơn 100 quốc gia trên thế giới, tụ họp tại Roma, vào ngày 8 và 9/3, để tham dự Năm Thánh Tình nguyện viên.

Số tình nguyện viên đến từ Ý đông nhất với 15 ngàn người: 5 ngàn người đến từ các nhóm Lòng Thương Xót, 4 ngàn đến từ tổ chức Bảo vệ Dân sự, và 800 người thuộc Caritas Ý.

Các tín hữu đến từ các quốc gia khác gồm: 124 người đến từ Tây Ban Nha, 123 người đến từ Hoa Kỳ, 85 người đến từ Brazil. Tiếp đến là các nhóm  đến từ Ba Lan, Argentina, Mexico, Colombia và cũng có các đại diện đến từ các quốc gia như Úc, Chile, Ecuador, Ấn Độ.

Vào thứ Bảy, ngày 8/3, các tín hữu hành hương - đại diện cho rất nhiều hiệp hội, nhóm, tổ chức phi lợi nhuận và các tổ chức tình nguyện từ khắp nơi trên thế giới tại Roma – sẽ có cơ hội trải nghiệm cuộc hành hương đến Cửa Thánh của Đền thờ Thánh Phêrô và có thể lãnh nhận Bí tích Hòa Giải tại các nhà thờ Năm Thánh, từ 8 giờ đến 17 giờ.

Từ 3 đến 6 giờ, cuộc gặp gỡ “Đối thoại với thành phố”, mang tính văn hóa, nghệ thuật và tâm linh sẽ diễn ra tại nhiều quảng trường ở Roma. Như tại quảng trường Risorgimento, sẽ có các hoạt động nâng cao nhận thức về tình nguyện. Cùng lúc đó, Phong trào Vì Sự Sống tại quảng trường Oro, khu vực bên ngoài Nhà thờ chính tòa San Giovanni Battista dei Fiorentini, sẽ giới thiệu các sáng kiến, tổ chức các hoạt động giải trí cho trẻ em và thu hút người tham dự qua những lời chia sẻ của một số bà mẹ.

Các hoạt động khác dành cho Năm Thánh Tình nguyện viên cũng sẽ diễn ra tại Nhà thờ San Salvatore in Lauro, Tại quảng trường Chiesa nuova và quảng trường Sant’Ignazio.

Vào Chúa nhật ngày 9/3, lúc 10:30 sáng, Đức Hồng Y Michael Czerny, Tổng trưởng Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, sẽ chủ sự Thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô và sẽ đọc bài giảng mà Đức Thánh Cha đã chuẩn bị cho sự kiện này.

 

Vatican News

 

Ý Cầu Nguyện Của ĐTC Phanxico - Tháng 3/2025 -

The Pope’s Monthly Intention (Mar, 2025) 

Cầu cho các gia đình đang gặp khủng hoảng:

Cầu cho các gia đình đang gặp khủng hoảng. Chúng ta hãy cầu nguyện để các gia đình tan vỡ có thể tìm ra phương thuốc chữa lành vết thương của họ thông qua sự tha thứ, tái khám phá những món quà của nhau, ngay cả trong sự khác biệt của họ.

For families in crisis:
Let us pray that broken families might discover the cure for their wounds through forgiveness, rediscovering each other’s gifts, even in their differences.

 

Trong video ý cầu nguyện trong tháng 3, được công bố ngày 4/3/2025, cầu nguyện cho các gia đình đang trong cơn khủng hoảng, Đức Thánh Cha nói rằng sự tha thứ luôn làm mới lại gia đình, giúp gia đình hướng về phía trước với niềm hy vọng. Tha thứ mang lại bình an, vì nó giải thoát chúng ta khỏi nỗi buồn, và trên hết là sự oán giận. Ngài mời gọi cầu nguyện để những gia đình tan vỡ có thể tìm thấy phương dược chữa lành vết thương qua sự tha thứ.

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha xuất phát từ thực tế là trong xã hội ngày nay, con số các gia đình ly thân và ly dị ngày càng gia tăng, thậm chí tại một số quốc gia, con số này còn cao hơn con số các cuộc hôn nhân.

 

Cần tôn trọng mỗi cá nhân

Đức Thánh Cha mở đầu video với nhận xét: “Ai trong chúng ta cũng đều mơ về một gia đình đẹp đẽ, hoàn hảo. Nhưng không có gia đình nào hoàn hảo cả”. Những xung đột trong gia đình xuất phát từ sự khác biệt của chính các thành viên. Do đó, theo ngài, cần tôn trọng mỗi cá nhân và xác tín rằng mỗi người có thể đóng góp điều gì đó cho sự hợp nhất của gia đình.

 

Tha thứ: Liều thuốc tốt nhất để chữa lành những vết thương trong gia đình

Khi xung đột tạo nên những vết thương, theo Đức Thánh Cha, “liều thuốc tốt nhất để chữa lành những vết thương trong gia đình chính là sự tha thứ”. Ngài giải thích: “Tha thứ có nghĩa là trao cho nhau một cơ hội khác” như Thiên Chúa luôn làm với chúng ta. “Sự tha thứ luôn làm mới lại gia đình, giúp gia đình hướng về phía trước với niềm hy vọng”.

Đức Thánh Cha nói thêm: “Ngay cả khi không thể có một “kết thúc có hậu” như chúng ta mong muốn, ân sủng của Thiên Chúa vẫn ban cho chúng ta sức mạnh để tha thứ và mang lại bình an, vì nó giải thoát chúng ta khỏi nỗi buồn, và trên hết là sự oán giận”. 

 

Hòa giải giúp giải quyết các hôn nhân trục trặc

Đức Thánh Cha giải thích trong Tông huấn Amoris Laetitia, “kinh nghiệm cho thấy rằng với sự hỗ trợ thích hợp và các hành động hòa giải, thông qua ân sủng, một tỷ lệ lớn các cuộc hôn nhân gặp trục trặc sẽ tìm thấy giải pháp theo cách thỏa đáng. Biết cách tha thứ và cảm thấy được tha thứ là một kinh nghiệm cơ bản trong cuộc sống gia đình”.

 

Năm thái độ có thể giúp nâng cao đời sống hằng ngày của gia đình

Cha Cristóbal Fones, Giám đốc quốc tế của Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo hoàng, nói về 5 thái độ có thể giúp nâng cao đời sống hằng ngày của gia đình. Trước hết, chúng ta cần chấp nhận sự khác biệt của mọi người, coi đó là cơ hội để làm phong phú thêm các mối quan hệ gia đình. Thái độ thứ hai, và có liên quan chặt chẽ với thái độ đầu tiên, là trân trọng người khác, nhận ra sự phong phú và tài năng của họ. Điều này có nghĩa là không phán xét mọi người. Và thái độ quan trọng nhất trong gia đình đó là cầu xin sự tha thứ và tha thứ khi cần thiết. Và cuối cùng là đồng hành với nhau. (CSR_805_2025)

 

Vatican News

 

Mùa Chay -

Lịch Sử & Ý Nghĩa Của Tro Ngày Thứ 4 Lễ Tro 

Tro ngày Lễ Tro là một nghi thức đặc biệt, mang đậm tính biểu tượng và ý nghĩa thiêng liêng trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Vào Thứ Tư trước lễ Phục sinh sáu tuần, Giáo Hội cử hành Lễ Tro để khai mạc Mùa Chay Thánh – một thời gian của sự ăn chay, sám hối và làm mới tâm hồn. Nghi thức này có nguồn gốc sâu xa, gắn liền với lịch sử và truyền thống của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, qua đó nhắc nhở con người về thân phận hữu hạn của mình và khuyến khích lòng thống hối, hướng về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Từ xa xưa, trong Cựu Ước, tro đã được sử dụng như một biểu tượng của sự u buồn, thống hối và thậm chí là của cái chết. Các nhân vật kinh thánh như Mordecai trong sách Esther mặc áo vải thô và xức tro khi nghe mệnh lệnh của vua Ahasuerus, Ông Gióp khi sám hối sau những đau khổ, hay Daniel trong thời kỳ đế quốc Babylon đều dùng tro như một dấu hiệu của sự ăn năn. Trong sách Daniel, người tín hữu đã ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu, ngẩng mặt lên Thiên Chúa để dâng lời khẩn nguyện – hành động này không chỉ thể hiện lòng thành của người sám hối mà còn nhấn mạnh sự phụ thuộc hoàn toàn vào ân sủng của Đấng Tạo Hóa. Cũng theo lời của Giona, khi thành Ninivê nghe lời cảnh báo về sự trừng phạt của Thiên Chúa, cả thành phố đã mặc áo vải nhặm, ngồi trên đống tro và ăn chay, biểu lộ sự hoán cải và lòng thống hối. Những minh chứng này cho thấy rằng, từ thuở xa xưa, tro đã được dùng như một phương tiện để biểu lộ tâm trạng nội tâm của người tín hữu, nhắc nhớ họ rằng thân xác chỉ là “bụi tro” và rằng sự sống con người là hữu hạn, từ đó khuyến khích mỗi người sống trong sự khiêm nhường và biết ăn năn.

Khi chuyển sang Tân Ước, Đức Giêsu cũng đã nhắc đến tro như một biểu tượng của sự thống hối. Trong lời dạy của Người, khi dân các thành phố không lắng nghe lời rao giảng dù đã chứng kiến những phép lạ và nghe Tin Mừng, Ngài nói rằng “nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Siđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” (Mt 11,21). Qua lời dạy ấy, Đức Giêsu khẳng định rằng sự thống hối chân thành – dù được thể hiện bằng những hành động giản dị như mặc áo vải nhặm và rắc tro – chính là con đường dẫn dắt con người trở lại với Thiên Chúa. Những lời rao giảng của Người đã đặt nền móng cho truyền thống sám hối trong Giáo Hội, trong đó tro ngày Lễ Tro được xem là lời nhắc nhở mạnh mẽ về sự yếu đuối của bản thể con người, rằng chúng ta chỉ là “bụi tro” và cuối cùng sẽ trở về với bụi tro như lời Kinh Thánh đã nhắc.

Trong truyền thống Kitô Giáo sơ khai, việc thực hành Mùa Chay đã có từ những thế kỷ đầu tiên, nhưng nghi thức xức tro và mặc áo nhộm dần được hình thành và phát triển qua các thời kỳ. Các tác phẩm của Tertullian (khoảng năm 160-220) trong cuốn De Poenitentia đã quy định rằng người sám hối phải “sống u buồn, sầu thảm trong sự thô ráp của áo vải nhộm và tro bụi dơ dáy.” Hình ảnh này đã trở nên biểu tượng cho lòng ăn năn và sự khiêm nhường của những người tội lỗi, như một cách công khai khẳng định rằng, trước mặt Thiên Chúa, chúng ta luôn cần thống hối, cần nhận ra rằng mọi tội lỗi đều dẫn đến sự xa cách với Đấng Tạo Hóa. Trong thời kỳ giáo hội sơ khai, những người phạm tội nặng – như những người chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình – thường bị buộc phải nhận tro công khai, như một hình thức loại ra khỏi cộng đoàn cho đến khi họ thể hiện sự sám hối thật lòng. Nghi thức này không chỉ là biện pháp trừng phạt mà còn là cơ hội để những người đó nhận lại sự tha thứ của Thiên Chúa sau khi đã thực sự ăn năn.

Vào khoảng thế kỷ thứ VIII, nghi thức xức tro bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong giới đan sĩ và tu viện để thể hiện mối liên hệ giữa sự chết và sự khiêm nhường, thống hối trước mặt Chúa. Các đan sĩ, tu sĩ thường có thói quen nằm trên đống tro, mặc chiếc áo nhộm như một biểu tượng của sự từ bỏ bản ngã, để “chết” với thế gian và sống trong tình yêu thương thiêng liêng của Thiên Chúa. Thánh Martino thành Tours, một nhân vật tiêu biểu của thời kỳ đó, đã từng nói rằng “không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi.” Qua đó, họ thể hiện sự chấp nhận của mình đối với sự hữu hạn của cuộc sống, đồng thời khẳng định rằng, dù thân xác chúng ta chỉ là tạm bợ, nhưng linh hồn lại có thể được cứu rỗi và hướng về một cuộc sống vĩnh cửu.

Từ thế kỷ thứ X đến thứ XI, nghi thức làm phép tro dần được hoàn thiện, kèm theo những lời nguyện cầu sâu sắc. Vào thời kỳ này, không chỉ giáo dân mà cả Đức Giáo Hoàng cũng tham gia vào nghi thức xức tro. Một trong những hình ảnh đáng nhớ là khi Đức Giáo Hoàng làm phép tro, ban đầu chỉ xức cho giáo dân nhưng sau đó áp dụng cho mọi người. Đức Giáo Hoàng thường kiệu về nhà thờ Thánh Nữ Sabina tại đồi Aventino, trong lúc đó cả cộng đoàn mặc áo nhộm, đi chân không, thể hiện sự thống hối ăn năn và lòng sám hối chân thành. Khi đến nhà thờ, Đức Giáo Hoàng đọc lời xá giải và cả cộng đoàn cùng hát bài “Chúng ta hãy thay đổi đời sống, xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên.” Lễ nghi này đã trở nên phổ biến trong cộng đồng Giáo hội và được truyền bá rộng rãi khắp nơi. Năm 1091, Công đồng Benevento tại Nam Italia đã chính thức truyền cử hành nghi thức bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Tro được lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước – một hình ảnh gắn liền với sự sống của Nước Thiên Chúa, khi mà cành lá được làm phép trở thành nguồn tro mang tính linh thiêng, biểu thị sự chuyển giao của ân sủng và lời mời gọi sám hối.

Trước Công đồng chung Vaticanô II, nghi thức làm phép tro và xức tro thường được cử hành ngay trước Thánh lễ, như một lời nhắc nhở cuối cùng về sự yếu đuối của con người trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, sau khi Sách Lễ Rôma được tu chính công bố vào năm 1970, nghi thức này được chuyển sang cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa, như một cách để kết thúc phần đọc Kinh Thánh và chuẩn bị tâm hồn cho việc tham dự Thánh lễ. Sự điều chỉnh này nhằm nhấn mạnh rằng, sau khi được nghe lời Chúa, mỗi tín hữu cần được nhắc nhở về bản chất của mình – là bụi tro, cần sám hối, cần đặt niềm tin và hi vọng vào Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ.

Lễ Tro không chỉ là một nghi thức phụng vụ đơn thuần mà còn mang trong mình thông điệp sâu sắc về nhân sinh và ơn cứu rỗi. Qua việc xức tro và mặc áo nhộm, mỗi người tín hữu được nhắc nhở về sự hữu hạn của thân xác, rằng dù chúng ta có đạt được bao nhiêu thành tựu, cuối cùng, thân xác chỉ là “bụi tro” và sẽ trở lại với bụi tro. Điều này cũng đồng thời khuyến khích mỗi người sống với lòng khiêm nhường, biết sám hối, biết cậy dựa vào Thiên Chúa – nguồn ơn cứu rỗi vĩnh cửu dành cho những ai tin cậy Ngài.

Ý nghĩa của tro ngày Lễ Tro càng được làm sâu sắc hơn khi nhìn vào bối cảnh hiện đại. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã ban hành hướng dẫn đề xuất rằng các linh mục nên sử dụng phương pháp rắc tro trong mọi trường hợp. Điều này không chỉ đảm bảo rằng nghi thức linh thiêng được duy trì mà còn thể hiện sự linh hoạt và thích ứng của Giáo hội trong thời buổi khó khăn, đồng thời tiếp tục nhắc nhở tín hữu về lời mời gọi sám hối và trở về với Thiên Chúa.

Tóm lại, Lễ Tro là dịp để mỗi người trong cộng đoàn tín hữu tự vấn về thân phận của mình trước mặt Thiên Chúa, nhớ rằng dù được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài, nhưng chúng ta vẫn là những sinh linh yếu đuối, chỉ là bụi tro và sẽ trở về với bụi tro. Nghi thức xức tro và mặc áo nhộm không chỉ là những cử chỉ vật lý mà còn là biểu hiện của lòng thống hối, sự khiêm nhường và cam kết sống đời sống trọn vẹn trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Nó nhắc nhở mỗi người rằng, dù có bao nhiêu sai lầm và tội lỗi, ơn cứu độ của Thiên Chúa luôn rộng lượng, luôn sẵn sàng ban cho những ai biết sám hối và đặt niềm tin vào Ngài.

Qua việc thực hành Lễ Tro, Giáo Hội mời gọi các tín hữu không chỉ sống một cuộc đời ý thức về sự hữu hạn của mình mà còn sống với hy vọng về một tương lai vĩnh cửu, nơi mà tình yêu thương và ân sủng của Thiên Chúa không bao giờ cạn kiệt. Những nghi thức linh thiêng này, được truyền lại qua nhiều thế kỷ, vẫn giữ được sức mạnh để biến đổi tâm hồn con người, giúp mỗi người nhận ra rằng, sự sống không chỉ đơn thuần là thời gian trên trần gian mà còn là hành trình hướng về một sự sống vĩnh cửu trong ơn cứu độ của Đấng Tạo Hóa.

Như vậy, Lễ Tro không chỉ đơn giản là nghi thức bắt đầu Mùa Chay Thánh mà còn là lời nhắc nhở thiêng liêng, là tiếng gọi của lòng sám hối và sự hối cải chân thành. Nó mở ra một cánh cửa dẫn dắt các tín hữu trở về với bản chất thực sự của mình, sống trong sự khiêm nhường, biết sám hối và luôn dõi theo con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra. Nhờ đó, mỗi người không chỉ nhận được lời nhắc nhở về sự mong manh của thân xác mà còn được truyền cảm hứng để sống một cuộc đời trọn vẹn trong tình yêu và ân sủng của Ngài.

Với tất cả những ý nghĩa lịch sử, tâm linh và thực tiễn ấy, Lễ Tro ngày nay vẫn giữ vị trí đặc biệt trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Nó là biểu hiện của lòng thống hối, là lời mời gọi quay trở về với Thiên Chúa và là minh chứng cho tình yêu thương bất biến của Ngài đối với con người. Mỗi khi chúng ta nhìn thấy dấu hiệu tro trên trán mình, hãy nhớ rằng đó là lời nhắc nhở về sự yếu đuối của chúng ta và đồng thời là cam kết sống trong ơn cứu độ, trong sự khiêm nhường và trong tình yêu thương vô bờ bến của Đấng Tạo Hóa.

Trong bối cảnh thế giới không ngừng biến đổi, khi mà những giá trị vật chất có lúc lấn át giá trị tinh thần, Lễ Tro vẫn luôn là nguồn động viên mạnh mẽ, nhắc nhở mỗi con người rằng, sự sống của chúng ta không chỉ là những thành tựu tạm thời mà còn là một hành trình hướng về sự sống vĩnh cửu. Nhờ vào nghi thức xức tro, mỗi tín hữu được tiếp thêm sức mạnh để đối mặt với những khó khăn, thử thách của cuộc sống, đồng thời không quên rằng, trong lòng mỗi người luôn tồn tại một niềm tin bất diệt, một ước mơ về sự cứu rỗi và niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng, được bao bọc bởi ân tình và lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Cuối cùng, Lễ Tro không chỉ là một nghi thức phụng vụ mà còn là lời tự vấn, là hành trình nội tâm của mỗi người tín hữu để nhận ra rằng, dù chúng ta có đạt được bao nhiêu thành tựu trên đời, thì thân xác của chúng ta chỉ là “bụi tro” – thứ yếu thời và tạm bợ. Nhưng qua lòng sám hối, qua sự khiêm nhường và qua ân tình cứu rỗi của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi trở nên vững vàng hơn, sống với một niềm tin sâu sắc và một tâm hồn tràn đầy hy vọng. Hãy để nghi thức Lễ Tro là lời nhắc nhở hàng ngày của chúng ta, để mỗi lần nhìn vào dấu vết tro trên trán, chúng ta lại nhớ về trách nhiệm sống đúng với hình ảnh mà Thiên Chúa đã ban cho, sống trong sự khiêm nhường, thống hối và luôn hướng về ơn cứu độ của Ngài.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

Vatican News -

Sứ điệp Mùa Chay 2025 của Đức Thánh Cha Phanxico 

Để đồng hành với các tín hữu trong hành trình Mùa Chay Thánh, vào ngày 25/2/2025, Đức Thánh Cha đã cho công bố Sứ điệp Mùa Chay năm 2025. Sứ điệp có tựa đề “Chúng ta hãy cùng nhau bước đi trong hy vọng”, trong đó Đức Thánh Cha chia sẻ với các tín hữu “ý nghĩa của việc cùng nhau bước đi trong hy vọng và khám phá lời kêu gọi hoán cải mà lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta, với tư cách là cá nhân và cộng đoàn”.

 

Sứ điệp Mùa Chay 2025 của Đức Thánh Cha
Chúng ta hãy cùng nhau bước đi trong hy vọng
 

Anh chị em thân mến!

Với nghi thức sám hối xức tro trên đầu, chúng ta bắt đầu cuộc hành hương thường niên của Mùa Chay Thánh, trong đức tin và đức cậy. Giáo hội, là mẹ và là thầy, mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn và mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa để có thể hân hoan cử hành chiến thắng phục sinh của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết, như Thánh Phaolô đã thốt lên: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi (1Cr 15,54-55). Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô, đã chịu đóng đinh và sống lại, là trung tâm đức tin của chúng ta và là bảo đảm cho niềm hy vọng của chúng ta vào lời hứa trọng đại của Chúa Cha, lời hứa đã được thực hiện nơi Con yêu dấu của Người: sự sống đời đời (x. Ga 10,28; 17,3) (1).

Trong Mùa Chay này, khi chúng ta cùng nhau chia sẻ ân sủng của Năm Thánh, tôi muốn chia sẻ với anh chị em một số suy tư về ý nghĩa của việc cùng nhau bước đi trong hy vọng và khám phá lời kêu gọi hoán cải mà Thiên Chúa, với lòng thương xót của Người, dành cho tất cả chúng ta, như là những cá nhân và cộng đoàn.

Trước hết là bước đi. Khẩu hiệu của Năm Thánh, “Những người hành hương hy vọng”, gợi nhớ đến cuộc hành trình dài của dân Israel hướng về Đất Hứa, được thuật lại trong sách Xuất Hành: cuộc hành trình khó khăn từ tình trạng nô lệ đến tự do, được mong muốn và hướng dẫn bởi Đức Chúa, Đấng yêu thương dân Người và luôn trung thành với họ. Và chúng ta không thể nhắc đến cuộc xuất hành trong Kinh Thánh mà không nghĩ đến nhiều anh chị em ngày nay đang chạy trốn khỏi những tình cảnh nghèo đói và bạo lực để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và những người thân yêu của họ. Lời kêu gọi hoán cải đầu tiên xuất phát từ thực tế là tất cả chúng ta đều là những người hành hương trong cuộc sống; mỗi người được mời gọi dừng lại và tự hỏi cuộc sống của chúng ta phản ánh sự thật này như thế nào? Tôi có thực sự đang bước đi hay đang bị tê liệt, trì trệ, sợ hãi và tuyệt vọng, hoặc ngần ngại bước ra khỏi vùng an toàn của mình? Tôi có đang tìm những cách giải thoát bản thân khỏi những tình huống tội lỗi và hạ thấp phẩm giá của tôi không? Sẽ là một bài tập Mùa Chay tốt cho chúng ta khi so sánh cuộc sống hàng ngày của mình với cuộc sống của một người di cư hoặc người nước ngoài, để học cách đồng cảm với những trải nghiệm của họ và bằng cách này khám phá ra điều Thiên Chúa đang yêu cầu chúng ta để chúng ta có thể tiến triển tốt hơn trên hành trình về nhà Cha. Đây sẽ là một “cuộc xét mình” tốt cho tất cả chúng ta, những người lữ hành.

Điểm thứ hai, chúng ta hãy cùng nhau hành trình. Cùng nhau bước đi, hiệp hành, chính là ơn gọi của Giáo hội (2). Các Kitô hữu được kêu gọi cùng nhau bước đi, chứ không phải như những lữ khách đơn độc. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta ra khỏi chính mình để hướng về Thiên Chúa và anh chị em mình, và đừng bao giờ khép kín mình lại (3).  Bước đi cùng nhau có nghĩa là củng cố sự hiệp nhất được đặt nền trên phẩm giá chung của con cái Thiên Chúa (x. Gl 3,26-28); nghĩa là bước đi bên cạnh nhau, không chà đạp hay lấn át người khác, không đố kỵ hay giả tạo, không để ai bị bỏ lại phía sau hay cảm thấy bị loại trừ. Chúng ta hãy cùng đi về một hướng, hướng tới cùng một mục tiêu, quan tâm đến người khác bằng tình yêu thương và sự kiên nhẫn.

Trong Mùa Chay này, Thiên Chúa yêu cầu chúng ta kiểm chứng xem trong cuộc sống của chúng ta, trong gia đình, tại nơi làm việc, trong giáo xứ hay cộng đoàn tu trì, chúng ta có khả năng đồng hành với người khác, lắng nghe, vượt qua cám dỗ thu mình vào sự tự tham chiếu và chỉ quan tâm đến nhu cầu của riêng mình hay không. Chúng ta hãy tự hỏi trước Chúa xem, liệu chúng ta, với tư cách là các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân phục vụ Vương quốc Thiên Chúa, có thể cùng làm việc với nhau hay không. Liệu chúng ta có thái độ chào đón, bằng những cử chỉ cụ thể, những người đến gần chúng ta và những người ở xa chúng ta không. Liệu chúng ta có làm cho mọi người cảm thấy họ là một phần của cộng đồng hay để họ ở bên lề (4). Đây là lời kêu gọi hoán cải thứ hai: hoán cải hiệp hành.

Điểm thứ ba là chúng ta cùng nhau thực hiện hành trình này trong hy vọng, bởi vì chúng ta được ban một lời hứa. Ước gì hy vọng không làm chúng ta thất vọng (x. Rm 5,5), sứ điệp trung tâm của Năm Thánh (5), trở thành điểm quy chiếu cho hành trình Mùa Chay của chúng ta hướng đến chiến thắng Phục Sinh. Như Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã dạy chúng ta trong Thông điệp Spe Salvi, “con người cần tình yêu vô điều kiện. Con người cần sự chắc chắn khiến họ phải nói: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8, 38-39) (6). Chúa Giêsu, tình yêu và hy vọng của chúng ta, đã phục sinh (7). Người đang sống và hiển trị trong vinh quang. Sự chết đã được biến đổi thành chiến thắng và đức tin cùng hy vọng lớn lao của người Kitô hữu đặt vào điều này: sự phục sinh của Chúa Kitô!

Và đây là lời kêu gọi hoán cải thứ ba: đó là lời kêu gọi hy vọng, tin tưởng vào Thiên Chúa và vào lời hứa vĩ đại của Người về sự sống vĩnh cửu. Chúng ta phải tự hỏi: Tôi có tin chắc rằng Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của tôi không? Hay tôi hành động như thể tôi có thể tự cứu mình? Tôi có khao khát ơn cứu độ và cầu xin sự trợ giúp của Thiên Chúa để đón nhận ơn cứu độ không? Tôi có sống cụ thể niềm hy vọng giúp tôi diễn giải các sự kiện trong lịch sử và thúc đẩy tôi dấn thân thực hiện công lý, tình huynh đệ, chăm sóc ngôi nhà chung, và theo cách mà không ai bị bỏ lại phía sau không?

Thưa anh chị em, nhờ tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng ta được nâng đỡ trong niềm hy vọng không làm chúng ta thất vọng (x. Rm 5,5). Hy vọng là “mỏ neo chắc chắn và kiên định của tâm hồn” (8). Hy vọng thúc đẩy Giáo hội cầu nguyện cho “tất cả mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4) và chờ đợi để được hưởng vinh quang thiên đàng cùng với Chúa Kitô, Phu Quân của mình. Đây là lời cầu nguyện của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu: “Hãy hy vọng, linh hồn tôi ơi, hãy hy vọng. Bạn không biết ngày nào hay giờ nào. Hãy thật tỉnh thức, bởi vì mọi thứ trôi qua trong chớp mắt, mặc dù sự thiếu kiên nhẫn của bạn có thể khiến điều chắc chắn trở nên không chắc chắn, và khiến một thời gian rất ngắn trở nên thật dài” (Lời than thở của tâm hồn với Thiên Chúa, 15, 3) (9).

Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Hy Vọng, chuyển cầu cho chúng ta và đồng hành cùng chúng ta trên hành trình Mùa Chay.

 

Roma, Đền thờ thánh Gioan Laterano, ngày 6 tháng 2 năm 2025,
Lễ nhớ Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo.
PHANXICÔ
 

(1) X. Tông thư Dilexit nos (24/10/2024), 220.

(2) X. Bài giảng Thánh lễ tuyên phong hai Chân phước Giovanni Battista Scalabrini e Artemide Zatti, 09/10/2022.

(3) X. Ibid.

(4) X. Ibid.

(5) X. Tông sắc Spes non confundit, 1.

(6) Tông thư Spe salvi (30/11/2007), 26.

(7) X. Ca tiếp liên Chúa Nhật Phục Sinh.

(8) X. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1820.

(9) Ivi, 1821.

 

Vatican News

 

Vatican News -

LỜI CẦU NGUYỆN CHO CUỘC HÀNH HƯƠNG QUA CỬA THÁNH 

Hành trình thiêng liêng qua Cửa Thánh không chỉ là một nghi thức bên ngoài, mà còn là dấu chỉ của cuộc hoán cải nội tâm, mời gọi mỗi người tiến đến gần hơn với lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Qua cuộc hành hương này người tín hữu xin Chúa ban ơn tha thứ, củng cố đức tin và gia tăng lòng mến. Mong sao mỗi bước chân qua Cửa Thánh cũng là một bước tiến trong đời sống thiêng liêng, giúp họ trở thành chứng nhân sống động của Tin Mừng.

 

Người dẫn đoàn:

Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.

 

Mọi người đáp:
Amen.

 

Người dẫn đoàn:

Xin Thiên Chúa của Niềm Hy Vọng,
Đấng đã làm người nơi Ngôi Lời nhập thể,
đổ tràn đầy niềm vui và bình an trong đức tin của chúng ta,
nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần,
ở cùng tất cả chúng ta.

 

Mọi người đáp:
Chúc tụng Chúa, niềm hy vọng của chúng con.

 

Bài đọc Kinh Thánh: 

Trích thư gửi tín hữu Rôma 5,1-5:

Vậy, một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.

 

(Sau bài đọc, mọi người giữ thinh lặng trong giây lát.)

 

Người dẫn đoàn:
Nào chúng ta lên đường nhân danh Đức Kitô:
Con Đường dẫn đến Chúa Cha,
Sự Thật giải thoát chúng ta,
Sự Sống đổi mới thế giới này.

 

Cuộc hành hương đến Cửa Thánh bắt đầu với việc rước Thánh Giá Năm Thánh.

 

Trong suốt cuộc hành hương, có thể: đọc các thánh vịnh, hát thánh ca, lần chuỗi Mân Côi, hay đọc kinh Năm Thánh, kinh Cầu Các Thánh Tử Đạo Việt Nam; tùy theo thời gian cần để đến Cửa Thánh.

 

THÁNH VỊNH 122 (121)

Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:
“Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA!”

Và giờ đây, Giê-ru-sa-lem hỡi,
cửa nội thành, ta đã dừng chân.

Giê-ru-sa-lem khác nào đô thị
được xây nên một khối vẹn toàn.

Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en.

Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Đa-vít.

Hãy nguyện chúc Giê-ru-sa-lem được thái bình,
rằng: “Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt,
tường trong luỹ ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an ninh.”

Nghĩ tới anh em cùng là bạn hữu,
tôi nói rằng: “Chúc thành đô an lạc.”

Nghĩ tới đền thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô.

 

THÁNH VỊNH 84 (83)

Lạy Chúa Tể càn khôn, cung điện Ngài xiết bao khả ái.

Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi
mong tới được khuôn viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.

Lạy Chúa Tể càn khôn là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ,
ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con
bên bàn thờ của Chúa!

Phúc thay người ở trong thánh điện
họ luôn luôn được hát mừng Ngài.

Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh,
ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương.

Lúc trẩy qua thung lũng Khô Cằn,
họ biến nó thành nguồn suối nước,
mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa chan.

Càng tiến lên, họ càng mạnh bước
đến chiêm ngưỡng Chúa Trời ngự trên núi Xi-on.

Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
xin đoái nghe lời con cầu nguyện.
Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Gia-cóp.

Lạy Chúa là khiên mộc chở che,
xin thương xem nhìn đến
gương mặt đấng Ngài đã xức dầu.

Một ngày tại khuôn viên thánh điện
quý hơn cả ngàn ngày.
Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!

Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ,
CHÚA tặng ban ân huệ với vinh quang.
Ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành.

Lạy Chúa Tể càn khôn, phúc thay người tin tưởng vào Chúa!

 

Bài hát 1: VỀ NƠI ĐÂY (Lm. Nguyễn Duy)

ÐK: Chúng con về nơi đây dâng ngàn tiếng ca, chúng con về nơi đây để tạ ơn Thiên Chúa. Qua bao tháng năm mong chờ, say sưa thánh ân vô bờ, được cùng nhau bên Chúa thỏa lòng con ước mơ.

1. Với tiếng hát rạo rực niềm tin, với ánh mắt đọng lời nguyện xin, chúng con dâng muôn ngàn ý tình. Từng lời kinh hay từng cuộc sống, cùng hòa chung trong tình hiệp nhấp, nguyện dâng lên Thiên Chúa tình thương.

2. Hãy đón lấy một trời hồng ân, hãy giữ lấy cả một mùa xuân, Chúa thương ban cho người thế trần. Một lần ta đến dự tiệc thánh, thì đời ta no thỏa hạnh phúc, nguồn bình an chan chứa đời ta.

 

Bài hát 2: CHUNG LỜI TẠ ƠN (Lm. Nguyễn Duy)

ĐK: Trong hân hoan chúng con về đây, mang tin yêu mơ ước nồng say, cùng hợp tiếng ca tạ ơn Chúa lời thiết tha.

1. Bao năm tháng con hằng ước mơ, về bên Chúa hát khúc tạ ơn. Ôi giây phút chan hòa thánh ân, trong cõi lòng dâng trào ý thơ.

2. Như nai khát mong nguồn nước trong, hồn con khát chính Chúa tình thương. Con vui sướng trở về thánh cung, cho cõi lòng vuông tròn ước mong.

3. Xin hiệp nhất muôn người chúng con, tình yêu Chúa nối kết đoàn con. Xin dâng Chúa trong một khúc ca, lời cảm tạ muôn đời thiết tha.

 

Bài hát 3: HÀNH TRANG NGƯỜI TRẺ (Lm. Hoàng Đức)

ĐK: Lạy Chúa chúng con về từ bốn phương trời. Lạy Chúa chúng con về từ khắp thôn làng, cùng với lớp sóng người hành hương, về nhà Chúa đi, về nhà Chúa đi.

1. Hành trang con mang theo đầy đau buồn của thế giới, hành trang con mang theo trào căm hờn của kiếp nghèo. Về đây xin dâng Cha trong lo âu, đưa hai tay quyết chung xây thế giới mới.

2. Hành trang con mang theo cuộc nổi loạn của người trẻ, hành trang con mang theo niềm lo sợ của kiếp già. Về đây xin dâng Cha trong lo âu, đưa hai tay quyết chung xây thế giới mới.

3. Hành trang con mang theo này tấm lòng đòi chia sẻ, hành trang con mang theo này sức mạnh tìm gắn hàn. Về đây xin dâng Cha trong lo âu, đưa hai tay quyết chung xây thế giới mới.

4. Hành trang con mang theo mọi khát vọng tìm chân lý, hành trang con mang theo mọi xây dựng tìm công bằng. Về đây xin dâng Cha trong lo âu, đưa hai tay quyết chung xây thế giới mới

 

Bài hát 4: LÊN ĐỀN THÁNH (Lm. Thành Tâm)

ÐK: Từ muôn phương ta về đây sánh vai lên đường, đường đưa ta đi lên đền Chúa ta. Lòng hân hoan ta hòa chung tiếng hát nhịp nhàng, vui hát mừng danh Chúa cứu độ ta. Tiến tiến bước lên đền, đền thánh của Người. Cất tiếng hát vui lên dân thánh của Người. Tiến, tiến bước loan truyền hồng ân Thiên Chúa Trời. Ta hát mừng tình thiên thu Chúa ta.

1. Vui mừng khi người ta bảo tôi: ta về thăm nhà Cha chúng ta, một ngày trong nhà Cha dấu yêu, sướng vui thay hơn trăm ngày ở xa quê nhà

2. Như ngày nào đoàn dân Chúa xưa, băng rừng sâu vượt qua biển khơi, lên đường đi hành hương thánh đô, chúng ta đi, đi lên đền Chúa ta thân yêu.

 

KINH NĂM THÁNH 2025

Lạy Cha trên trời,
Xin cho ơn đức tin mà Cha ban tặng chúng con
trong Chúa Giêsu Kitô, Con Cha và Anh của chúng con,
cùng ngọn lửa đức ái được thắp lên trong tâm hồn chúng con bởi Chúa Thánh Thần,
khơi dậy trong chúng con niềm hy vọng hồng phúc hướng về Nước Cha trị đến.

Xin ân sủng Cha biến đổi chúng con
thành những người miệt mài vun trồng hạt giống Tin Mừng.
Ước gì những hạt giống ấy
biến đổi từ bên trong nhân loại và toàn thể vũ trụ này,
trong khi vững lòng mong đợi trời mới đất mới,
lúc mà quyền lực Sự Dữ sẽ bị đánh bại,
và vinh quang Cha sẽ chiếu sáng muôn đời.

Xin cho ân sủng của Năm Thánh này
khơi dậy trong chúng con, là Những Người Lữ Hành Hy Vọng,
niềm khao khát kho tàng ở trên trời.
Đồng thời cũng làm lan tỏa trên khắp thế giới
niềm vui và sự bình an của Đấng Cứu Chuộc chúng con.
Xin tôn vinh và ngợi khen Cha là Thiên Chúa chúng con,
Cha đáng chúc tụng mãi muôn đời. Amen.

 

KINH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Kính lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam / là con thảo của Cha trên trời / là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô / là thành phần trung kiên của Hội thánh. Nay chúng con xin hợp với các ngài / và với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a / là nữ vương các thánh Tử Đạo / mà ca tụng Chúa muôn trùng cao cả. Xưa Chúa ban cho các ngài / được vững tin vào Lời Chúa / và đầy sức mạnh của Thánh Thần / nên các ngài đã kiên tâm chịu gian lao đau khổ / quyết một lòng theo Đức Kitô trên con đường thập giá / và hy sinh đến giọt máu cuối cùng.

Các ngài đã chấp nhận nên hạt lúa gieo vào lòng đất / để Hội thánh Việt Nam / thu lượm được mùa lúa dồi dào. Nay Hội thánh lại dâng các ngài lên Chúa / như hoa quả đầu mùa để cảm tạ tri ân. Các ngài đã yêu mến quê hương / xin cầu cho đất nước được an vui hạnh phúc / và góp phần xây dựng một thế giới hòa bình. Các ngài đã cam lòng chịu chết mà không oán hận / xin cầu cho đồng bào mọi giới / biết yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Các ngài đã hy sinh tất cả vì đức tin / xin cầu cho mọi kitô hữu / biết sống và chia sẻ niềm tin của mình.

Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam / là những bậc tiền nhân đã hoàn thành sứ mạng / xin chuyển cầu cho chúng con là con cháu / được noi gương các ngài / biết đem lòng bác ái mà dấn thân phục vụ / để một ngày kia trên thiên quốc / chúng con được hợp tiếng với các ngài / ca ngợi tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển. Amen.

 

KHI ĐẾN CỬA THÁNH: (đọc Thánh Vịnh sau)

 

THÁNH VỊNH 24 (23)

CHÚA làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài,
làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư.

Nền trái đất, Người dựng trên biển cả,
đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.

Ai được lên núi CHÚA?
Ai được ở trong đền thánh của Người?

Đó là kẻ tay sạch lòng thanh,
chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối.

Người ấy sẽ được CHÚA ban phúc lành,
được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.

Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người,
tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.

Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên,
cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Đức Vua vinh hiển ngự vào.

Đức Vua vinh hiển đó là ai?
Là ĐỨC CHÚA mạnh mẽ oai hùng,
ĐỨC CHÚA oai hùng khi xuất trận.

Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên,
cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Đức Vua vinh hiển ngự vào.

Đức Vua vinh hiển đó là ai?
Là Chúa Tể càn khôn: chính Người là Đức Vua vinh hiển.

 

Khi đến Vương Cung Thánh Đường:

Đọc những kinh cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha:

  • Kinh Lạy Cha
  • 3 Kinh Kính Mừng
  • Kinh Sáng Danh

 

Khi đến Mộ Thánh Tông Đồ Phêrô: (đọc Kinh Tin Kính)
Tôi tin kính một Thiên Chúa...

 

KẾT THÚC:

 Nếu người chủ sự là linh mục, cuộc hành hương kết thúc với phép lành.

Nếu người chủ sự là giáo dân, đọc lời sau:

  • Người dẫn đoàn: Nào ta chúc tụng Chúa.
  • Mọi người đáp: Tạ ơn Chúa.

 

Vatican News

 

Vatican News -

Sứ điệp cho Ngày Thế giới Truyền giáo 2025: Mang hy vọng trong một thế giới khủng hoảng 

Sáng ngày 6/2, Tòa Thánh đã công bố “Sứ điệp cho Ngày Thế giới Truyền giáo lần thứ 99”, sẽ được cử hành vào ngày 19 tháng 10. Đức Thánh Cha mời gọi Giáo hội kiên trì trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, dù phải đối diện với bách hại cũng như những “bất toàn và sa ngã do yếu đuối của từng thành viên”.

 

Giữa những bách hại, Giáo hội vẫn là Giáo hội truyền giáo

Trích dẫn thông điệp Fratelli tutti, Đức Thánh Cha khuyến khích một mùa truyền giáo mới của Giáo hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng được sai đến để khơi dậy niềm hy vọng trong một thế giới đang bị bao trùm bởi bóng tối. Ngài cũng nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu “vẫn đang cúi xuống trên mỗi người nghèo đói, đau khổ, tuyệt vọng và bị áp bức bởi sự dữ”. Đức Thánh Cha khuyến khích tất cả các tín hữu đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, những môn đệ truyền giáo của Chúa Kitô, tỏa sáng hy vọng của Người ở mọi nơi trên thế giới, và ngài thêm:

“Giáo hội, cộng đoàn các môn đệ-truyền giáo của Chúa Kitô, tiếp tục sứ vụ của Người bằng cách hiến dâng chính mình cho mọi người giữa lòng nhân loại. Dù phải đối diện với bách hại, gian nan thử thách, cũng như chính những bất toàn và sa ngã do sự yếu đuối của từng thành viên, Giáo hội vẫn luôn được tình yêu của Chúa Kitô thúc đẩy để cùng Người và như Người, lắng nghe tiếng kêu than của nhân loại, thậm chí là tiếng rên siết của mọi thụ tạo đang mong chờ ơn cứu độ chung cuộc”.

 

Chúng ta kết nối nhưng không có tương quan thực sự

Đức Thánh Cha tiếp tục phân tích một thực trạng đáng lo ngại trong thế giới hôm nay: một cảm giác lạc lối, cô đơn và bị bỏ rơi đang lan rộng, đặc biệt là nơi người cao tuổi, cũng như sự thiếu sẵn sàng giúp đỡ những người xung quanh. Đây là một xu hướng nổi bật trong các xã hội phát triển về công nghệ, dẫn đến một sự mất dần tình liên đới:

“Chúng ta đều kết nối với nhau, nhưng lại không thực sự có mối tương quan. Chủ nghĩa hiệu quả, sự bám víu vào vật chất và tham vọng cá nhân khiến chúng ta tập trung vào chính mình, làm mất đi khả năng vị tha”.

Trong bối cảnh đó, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Tin Mừng, khi được sống trong cộng đoàn, có thể phục hồi một nhân loại toàn vẹn, lành mạnh và được cứu chuộc. Ngài tái khẳng định lời mời gọi đã được đưa ra trong Sắc chỉ công bố Năm Thánh, đặc biệt là đối với những người nghèo, người đau yếu, người cao tuổi và những người bị gạt ra bên lề xã hội vật chất và tiêu thụ. Và ngài kêu gọi thực hiện điều đó với phong cách của Thiên Chúa:

“Bằng sự gần gũi, lòng trắc ẩn và sự dịu dàng, hãy chăm sóc mối tương quan cá nhân với anh chị em của chúng ta trong hoàn cảnh cụ thể của họ. Nhiều khi, chính họ sẽ là những người dạy chúng ta biết sống với hy vọng”.

 

Cầu nguyện là hành động truyền giáo đầu tiên – Chứng tá của Đấng Đáng Kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Sứ điệp của Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh đến tính cấp bách của sứ vụ truyền giáo mang lại hy vọng. Ngài mời gọi các môn đệ của Chúa Kitô trước hết phải được đào luyện để trở thành những “nghệ nhân của hy vọng” và những người kiến tạo lại nhân loại, vốn đang chìm đắm trong sự phân tâm và bất hạnh. Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến “linh đạo Phục Sinh”, nguồn sức mạnh thiết yếu cho công cuộc loan báo Tin Mừng.

Đức Thánh Cha khẳng định: “Kitô hữu là những con người được tái sinh, những con người của mùa xuân”. Trong bối cảnh này, ngài nhắc đến Đấng Đáng Kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, người đã giữ vững niềm hy vọng trong suốt những năm tháng tù đày nhờ vào việc kiên trì cầu nguyện và sức mạnh từ Bí tích Thánh Thể. Và ngài kết luận: “Chúng ta đừng quên rằng cầu nguyện là hành động truyền giáo đầu tiên, và đồng thời cũng là sức mạnh đầu tiên của niềm hy vọng”.

 

Thuộc về Giáo hội không phải là điều đạt được một lần cho mãi mãi

Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cầu nguyện bằng Thánh Vịnh, vì Thánh Vịnh giúp chúng ta học cách hy vọng trong thử thách, nhận ra những dấu chỉ của hy vọng và luôn duy trì ước muốn truyền giáo.

Ngài lưu ý rằng trong xã hội ngày nay, “thuộc về Giáo hội không bao giờ là một thực tại đạt được một lần cho mãi mãi”. Vì thế, công cuộc truyền giáo đòi hỏi một sự kết hợp giữa cầu nguyện và hành động.

Đức Thánh Cha mời gọi chung:“Tôi tiếp tục nhấn mạnh đến tính hiệp hành truyền giáo của Giáo hội, cũng như vai trò phục vụ của các Hội Giáo hoàng Truyền giáo trong việc thúc đẩy trách nhiệm truyền giáo của những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và hỗ trợ các Giáo hội địa phương mới. Tôi khuyến khích tất cả anh chị em – từ trẻ em, thanh thiếu niên, người lớn cho đến người cao tuổi – tích cực tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng chung, qua chứng tá đời sống, qua lời cầu nguyện, những hy sinh và lòng quảng đại của anh chị em.”

 

Vatican News

 

Vatican News -

Đền thánh Đức Mẹ Các Thánh Tử Đạo tại New York chính thức được công nhận là Đền thánh Quốc gia

Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ (USCCB) đã chính thức công nhận Đền thánh Đức Mẹ Các Thánh Tử đạo, bao gồm ngôi làng nơi các thánh Isaac Jogues, René Goupil và Jean de Lalande đã tử đạo, cũng là nơi sinh của thánh Kateri Tekakwitha, là Đền thánh Quốc gia.

Ngày 27 tháng 1 vừa qua, Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã thông báo cho tổ chức Friends of Our Lady of Martyrs, đơn vị sở hữu đền thánh, rằng nơi này có thể mang danh hiệu “quốc gia” sau khi gởi đơn xin công nhận vào tháng 8 năm 2024.

Đức cha Edward B. Scharfenberger, Giám mục giáo phận Albany và là chủ tịch đền thánh, chia sẻ trong một tuyên bố: “Chúng tôi vui mừng khi các giám mục đã xác nhận điều mà các tín hữu từ lâu đã cảm nhận: Đền Thánh Quốc gia Đức Mẹ Các Thánh Tử đạo là ngôi nhà để nuôi dưỡng sự thánh thiện tại Hoa Kỳ, Canada và Mexico.”

Đền thánh đã nhận được danh hiệu quốc gia sau khi các giám mục xác nhận rằng nơi này đáp ứng các tiêu chuẩn của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, “Các Quy tắc về việc Công nhận Đền thánh Quốc gia”, bao gồm việc “được dành riêng để củng cố đức tin của khách hành hương thông qua việc tôn vinh một mầu nhiệm đức tin Công giáo, lòng sùng kính dựa trên truyền thống chân chính của Giáo hội, các mặc khải được Giáo hội công nhận, hoặc cuộc đời của các thánh trong lịch phụng vụ”.

Linh mục Roger Landry, Giám đốc Quốc gia Hiệp hội Truyền giáo Giáo hoàng và là thành viên hội đồng quản trị của Friends of Our Lady of Martyrs, nhấn mạnh rằng đền thánh là nơi mọi tín hữu Công giáo được củng cố trong chiều kích truyền giáo của đời sống Kitô hữu.

Ngài chia sẻ: “Như Đức Thánh Cha Phanxicô nhiều lần nhắc nhở, chúng ta không chỉ “có một sứ mạng” mà “là sứ mạng”. Chúng ta được Chúa Giêsu Kitô trao phó sứ mạng hoàn thành công cuộc cứu độ của Người trong thế giới”.

Cha Landry cho rằng: Mối liên hệ sâu sắc với bốn vị thánh và anh hùng đức tin làm cho đền thánh “có lẽ trở thành nơi linh thiêng nhất đối với người Công giáo tại quốc gia này, chỉ sau nhà tạm trong các nhà thờ và linh hồn của những trẻ sơ sinh vừa được rửa tội”.

Về phần mình, bà Julie Baaki, Giám đốc điều hành đền thánh, nhận định: “Đền thánh quốc gia của chúng tôi là nơi bình an để khách hành hương đến cầu nguyện cho những anh chị em đang bị bách hại trên khắp thế giới, cũng như xin ơn can đảm để vượt qua những thử thách trong hành trình cuộc sống, lớn lên trong đức tin và truyền lại đức tin ấy cho người khác”.

Nhà thờ trong khuôn viên đền thánh được xây dựng vào năm 1930 và có sức chứa hơn 8.000 người, trở thành nhà thờ có sức chứa lớn nhất tại Tây Bán cầu. Đền Thánh Quốc gia Đức Mẹ Các Thánh Tử đạo sẽ bắt đầu mùa hành hương năm 2025 vào ngày 3 tháng 5 và sẽ mở cửa đến ngày lễ kính các thánh tử đạo Bắc Mỹ vào 19 tháng 10.

 

Vatican News

 

Vatican News -

ĐTC Phanxico: Hãy thay đổi cách nhìn theo giấc mơ của Thiên Chúa 

Sáng thứ Bảy, ngày 1/2, trong buổi tiếp kiến chung thứ hai của Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha tập trung vào “sự thay đổi hướng đi” bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Khi hướng mắt nhìn về Người, chúng ta bước vào “giấc mơ của Thiên Chúa” và vào niềm hy vọng theo gương của Maria Mađalêna, “tông đồ của các tông đồ”.

Một “sự thay đổi hướng đi” và “cách nhìn”, để hướng bước chân và ánh mắt về Thiên Chúa và bước vào “giấc mơ của Người”: đó là điều Đức Thánh Cha mong ước cho mỗi người nam nữ đang hành hương trên trái đất trong Năm Thánh hy vọng này.

 

Niềm hy vọng không bao giờ làm thất vọng

Đức Thánh Cha giải thích: “Năm Thánh là một khởi đầu mới cho con người và cho trái đất; đó là thời gian để mọi sự được suy nghĩ lại trong giấc mơ của Thiên Chúa”. Ngài nói thêm rằng, sự hoán cải chính là điều này: thay đổi hướng đi, nhìn mọi sự “từ một góc nhìn khác”, đặt mục tiêu “đến những mục tiêu mới”.

Như thế, niềm hy vọng không bao giờ làm thất vọng được nẩy sinh... Và đối với chúng ta, kinh nghiệm đức tin cũng được khơi dậy từ cuộc gặp gỡ với những người biết thay đổi trong cuộc sống và có thể nói là đã bước vào giấc mơ của Thiên Chúa.

 

Maria Mađalêna, được chữa lành nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa

Đức Thánh Cha dừng lại để suy tư về hình ảnh của Maria Mađalêna, người được chữa lành nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng thương xót thay đổi trái tim và, đối với Maria Mađalêna, lòng thương xót đã đưa bà trở lại giấc mơ của Thiên Chúa và mang đến cho bà những mục tiêu mới trên hành trình của mình”. Đặc biệt, Đức Thánh Cha nhấn mạnh thêm, Mađalêna là người biết quay lại: bà không nhìn vào ngôi mộ trống, nhưng hướng về Đấng Phục Sinh. Và bà quay lại khi nghe thấy tên mình được gọi.

Niềm hy vọng của bà lớn lên: giờ đây bà thấy ngôi mộ, nhưng không còn như trước nữa. Bà có thể lau khô nước mắt, vì đã nghe thấy tên mình: chỉ có Thầy mới gọi tên bà như thế. Thế giới cũ dường như vẫn còn đó, nhưng thực ra nó không còn nữa.

 

Từ bỏ sự kiêu ngạo ngăn cản chúng ta nhận ra Chúa Giêsu

Từ Maria Mađalêna, “tông đồ của các tông đồ”, chúng ta có thể học được niềm hy vọng dẫn chúng ta “đến một thế giới mới” qua sự hoán cải liên tục. Từ đó, Đức Thánh Cha đặt câu hỏi cho mỗi tín hữu: Tôi có biết quay lại để nhìn mọi sự theo một cách khác, với một cái nhìn khác không? Tôi có khao khát hoán cải không? Một cái tôi quá tự tin, một cái tôi quá kiêu ngạo sẽ ngăn cản chúng ta nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh: ngay cả hôm nay, Người vẫn mang khuôn mặt của những con người bình thường, những người dễ dàng bị chúng ta bỏ qua. Ngay cả khi chúng ta khóc lóc và tuyệt vọng, chúng ta cũng lại bỏ Người phía sau. Thay vì nhìn vào bóng tối của quá khứ, vào sự trống rỗng của ngôi mộ, chúng ta hãy học từ Maria Mađalêna cách quay về hướng sự sống. Ở đó, Thầy của chúng ta đang chờ đợi. Ở đó, tên của chúng ta được xướng lên.

 

Vatican News

 

Vatican News -

Bốn cử chỉ cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu trong năm 2025 

Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu, bắt đầu vào ngày 18 và kết thúc vào ngày 25/01, lễ Thánh Phaolô Tông đồ trở lại. Năm nay, 2025, có chủ đề “Anh có tin điều này không?” (Ga 11,26).

Sự kiện đại kết đã được Giáo hội cử hành hàng năm trong 117 năm qua, tuần lễ hiệp nhất Kitô giáo khai mạc vào ngày 18/01 là cơ hội tốt đẹp để nhắc nhở các Kitô hữu, dù là Công giáo, Tin lành hay Chính thống giáo, rằng sự hiệp thông giữa tất cả những người đã được rửa tội là một đòi hỏi thiêng liêng vốn có trong đức tin. Cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu là đáp lại yêu cầu đầu tiên của Chúa Kitô trong Kinh Lạy Cha: “Danh Cha cả sáng”. Một sự hiệp nhất cũng được trải nghiệm trong hành động, như được chứng minh qua những tiến bộ của phong trào đại kết đạt được trong năm 2024 và những mong muốn cho năm 2025!

 

Lễ chung đầu tiên của các vị tử đạo Copte

21 vị tử đạo Kitô giáo, trong đó có 20 người Copte bị IS sát hại vào năm 2015 ở Libya, được đưa vào danh sách các thánh tử đạo của Giáo hội Công giáo Latinh. Một sáng kiến lịch sử: nếu từ những thế kỷ đầu Giáo hội Công giáo và Giáo hội Copte đã có các vị thánh chung, thì 21 vị tử đạo này sẽ là những vị thánh đầu tiên được hai Giáo hội công nhận kể từ thế kỷ thứ năm bị gián đoạn.

Ngày 11/5/2023, trong buổi tiếp kiến Đức Thượng phụ Chính thống giáo Copte Tawadros II, Đức Thánh Cha đã thông báo rằng 21 vị tử đạo của Giáo hội Chính Thống Copte sẽ được đưa vào danh sách các thánh tử đạo của Giáo hội Công giáo Latinh như một dấu chỉ của sự hiệp thông thiêng liêng giữa hai Giáo hội Kitô giáo. Ngài nói: “Cầu mong lời cầu nguyện của các vị tử đạo Copte, hiệp nhất với lời cầu nguyện của Mẹ Thiên Chúa, tiếp tục giúp các Giáo hội chúng ta phát triển trong tình bạn, cho đến ngày hồng phúc khi chúng ta có thể cử hành trên cùng một bàn thờ và cùng nhau rước Mình và Máu Chúa Cứu Thế”.

Vì thế, ngày 15/02/2024, lần đầu tiên Giáo hội Công giáo và Giáo hội Copte có thể cùng nhau kính nhớ sự hy sinh của các vị tử đạo và cùng nhau làm chứng cho sự kết hợp của các vị tử đạo bằng máu. Ngày 15/02 là ngày kính nhớ các vị chịu tử đạo.

20 người Ai Cập, hầu hết đến từ thành phố Al-Nour, đã đến Libya, ở vùng Sirte, để làm việc hỗ trợ gia đình. Vào tháng 12/2014, họ đã bị các thành viên của Nhà nước Hồi giáo bắt cóc. Cùng với họ, một người Ghana, cũng đang làm việc tại Libya, bị bắt và gia nhập nhóm. Sau nhiều tuần bị giam giữ, 21 người đàn ông mặc quần áo màu cam, màu của những người bị kết án tử hình, bị những người đàn ông mặc đồ đen, giương cao lá cờ Nhà nước Hồi giáo đưa đến một bãi biển ở Sirte. Đối diện với việc từ chối chối bỏ đức tin của mình, họ đã bị chặt đầu vào ngày 15/02/2015. Thi thể của họ không được tìm thấy cho đến tháng 10/2017, vào cuối Trận chiến Sirte và sau khi khai quật một ngôi mộ tập thể.

 

Thượng Hội đồng về hiệp hành

Mười sáu đại diện của các Giáo hội Kitô đã tham gia Thượng hội đồng về Hiệp hành, phiên họp thứ hai được tổ chức tại Roma từ ngày 2 đến 27/10/2024. Các “đại biểu huynh đệ” này là dấu hiệu và là tác nhân của việc tìm kiếm sự hiệp nhất của các Giáo hội Kitô.

Nhân dịp này mục sư Anne-Cathy Graber thuộc Hội đồng Mennonite thế giới, quy tụ 1,45 triệu những người đã được rửa tội trên toàn thế giới, không giấu sự ngạc nhiên lớn, bày tỏ: “Giáo hội Công giáo không cần tiếng nói của chúng tôi, vốn là một số rất nhỏ. Nhưng việc chúng tôi được mời đến đây nói lên rất nhiều điều về tính hiệp hành, cho thấy rằng mọi tiếng nói đều có giá trị, mọi tiếng nói đều quan trọng”.

Tổng Giám Mục Chính thống Job Getcha của Pisidia, thuộc Tòa Thượng phụ Constantinople cũng bày tỏ tâm tình biết ơn tương tự. Vị đang cai quản giáo phận bao gồm miền nam Thổ Nhĩ Kỳ xung quanh thành phố Antalya, đã đảm bảo rằng Thượng hội đồng này là cơ hội để thực hiện Giáo hội học của  Công đồng Vatican II. Theo Tổng Giám Mục, tiến trình hiệp hành mà Giáo hội Công giáo đã trải qua kể từ năm 2021 không phải là một “sự đổi mới” nhưng là một “thời gian học hỏi”, điều cũng nuôi dưỡng Chính thống giáo và truyền thống hiệp hành tốt đẹp của họ.

Cha Hyacinthe Destivelle, phụ trách khu vực phía đông của Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu xác tín: “Con đường hiệp hành là con đường đại kết; và con đường đại kết chỉ có thể là con đường hiệp hành”.

 

Lễ Phục sinh chung

Theo sự giao nhau của lịch Giuliano và Gregoriano, năm nay, các Giáo hội Chính thống và Công giáo sẽ cử hành Lễ Phục sinh vào cùng một ngày, ngày 20/4/2025. Đối với người Công giáo cũng như Chính thống, Lễ Phục sinh là đỉnh cao của đời sống phụng vụ. Nhưng do cách tính khác nhau nên không phải lúc nào lễ này cũng được cử hành trong cùng một ngày. Tuy nhiên, việc tìm một ngày chung để cử hành sự phục sinh của Chúa Kitô vẫn là mong muốn của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Kể từ khi bắt đầu triều Giáo hoàng, Đức Thánh Cha đã nhắc lại lời kêu gọi người Công giáo và Chính thống cử hành sự phục sinh của Chúa Kitô trong cùng một ngày. Một nhóm làm việc liên tôn, được gọi là “Pasqua Together 2025-Phục sinh cùng nhau 2025” , được thành lập vào năm 2022. Nhóm bao gồm đại diện các Giáo hội Kitô, các Hiệp hội và Phong trào giáo dân, với các lĩnh vực hoạt động khác nhau như chính trị, chuẩn bị cho Thiên niên kỷ thứ hai của Ơn Cứu Độ - vào năm 2033 - và các sáng kiến tương tự khác.

Vào ngày 19/9/2024, khi tiếp đón các thành viên của nhóm làm việc này, Đức Thánh Cha giải thích: sáng kiến về ngày lễ này là điều cần thiết cho sự đáng tin cậy của chứng tá Kitô giáo. Ngài nhấn mạnh: “Trong nhiều dịp, tôi đã nhận được lời kêu gọi tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề thống nhất ngày lễ Phục sinh, để việc cử hành chung ngày Chúa sống lại không còn là một ngoại lệ, nhưng trở thành điều bình thường. Do đó, tôi khuyến khích những ai đang dấn thân vào cuộc hành trình này hãy kiên trì và nỗ lực hết sức để tìm kiếm sự hiệp thông có thể có, tránh mọi điều có thể dẫn đến sự chia rẽ sâu sắc hơn giữa anh em”.

Về việc này, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở: “Lễ Phục Sinh không diễn ra theo sáng kiến của chúng ta hay do lịch này hay lịch khác: biến cố Phục Sinh xảy ra vì Thiên Chúa “yêu mến thế gian đến mức ban Con Một, để ai tin vào Người thì sẽ không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Ga 3,16)”. Do đó, “chúng ta đừng khép kín mình trong các kế hoạch, dự án, lịch trình, Lễ Phục Sinh “của chúng ta”. Lễ Phục sinh thuộc về Chúa Kitô!”.

Do đó, theo Đức Thánh Cha, chúng ta cần suy tư, chia sẻ và cùng nhau lên kế hoạch, đặt Chúa ở trước mặt chúng ta, biết ơn vì lời kêu gọi mà Người đã ngỏ với chúng ta và mong muốn trở thành, trong sự hiệp nhất, những chứng nhân của Người, để thế giới có thể tin (xem Ga 17,21).

 

Cử hành 1.700 năm Công đồng Nicea

Năm 2025 cũng đánh dấu kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Đại kết đầu tiên, diễn ra tại Nicea vào năm 325, nay là thành phố Iznich, ở phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ, cách thủ đô Istanbul khoảng hơn 100 km. Trong thời gian qua Giáo hội Công giáo và Chính thống đã có những bước chuẩn bị cho sự kiện lịch sử này. Một trong những điều đó là mong muốn cử hành lễ Phục sinh chung.  

Vào tháng 6/2024, trong buổi tiếp kiến phái đoàn của Toà Thượng phụ Đại kết Constantinople, Đức Thánh Cha bày tỏ mong muốn đến Nicea để cử hành kỷ niệm quan trọng với Đức Thượng phụ Bartolomeo.

Ðức Thánh cha nói: “Tôi cầu mong rằng biến cố kỷ niệm rất quan trọng này làm gia tăng nơi tất cả các tín hữu Kitô ý chí cùng nhau làm chứng về đức tin và lòng khao khát một sự hiệp thông lớn hơn”.

Do đó, một cuộc họp đại kết quy mô lớn được tổ chức với Đức Thượng phụ Bartolomeo của Chính Thống Constantinople, có thể diễn ra vào tháng 5/2025 trên bờ Hồ Iznik - trước đây là Nicea -, ở Thổ Nhĩ Kỳ, với sự hiện diện của Đức Thánh Cha.

Tiếp theo, trong buổi tiếp kiến các tham dự viên của Khoá họp Toàn thể của Uỷ ban Thần học Quốc tế, ngày 28/11/2024 , Đức Thánh Cha nói Năm Thánh sắp đến mời gọi mọi người tái khám phá khuôn mặt Chúa Kitô và “tái tập trung” vào Người. Năm Thánh này cũng là dịp cử hành 1.700 năm Công đồng Đại kết Nicea, một cột mốc lịch sử của Giáo hội và toàn thể nhân loại. Đức tin vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể “vì loài người chúng ta và vì ơn cứu độ chúng ta”, đã được định nghĩa và tuyên xưng như ánh sáng chiếu soi ý nghĩa thực tại và vận mệnh của toàn bộ lịch sử.

Sau đó, Đức Thánh Cha nói với mọi người rằng ngài dự tính đến đó nhân kỷ niệm sự kiện quan trọng này.

 

Vatican News

 

Vatican News -

Đức Thánh Cha bổ nhiệm ĐHY Koovakad làm Tổng trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn 

Sáng 24/1, Đức Thánh Cha bổ nhiệm ĐHY Koovakad, người Ấn Độ, làm Tổng trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn kế nhiệm ĐHY Ayuso Guixot, qua đời vào tháng 11 năm ngoái.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm Đức Hồng y người Ấn Độ George Jacob Koovakad làm tân Tổng trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn. Đức Hồng y Koovakad kế nhiệm Đức Hồng y Miguel Ángel Ayuso Guixot, đã qua đời vào tháng 11 năm ngoái. ĐHY Koovakad cũng tiếp tục đảm nhận vai trò điều phối viên các chuyến tông du của Đức Thánh Cha.

Đức Hồng y Koovakad, 51 tuổi, sinh ngày 11 tháng 8 năm 1973 tại Chethipuzha, Ấn Độ. Ngài được thụ phong linh mục vào ngày 24 tháng 7 năm 2004 và thuộc Tổng giáo phận Changanacherry. Sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ Giáo luật, vào năm 2006, ngài gia nhập ngành ngoại giao của Tòa Thánh, được bổ nhiệm làm Thư ký tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở Algeria. Kể từ đó, ngài đã phục vụ tại nhiều Tòa Sứ thần khác nhau: từ năm 2009 tại Hàn Quốc, từ năm 2012 tại Iran, từ năm 2015 tại Costa Rica với vai trò Tham tán, và từ năm 2018 tại Venezuela.

Từ năm 2020, Đức Hồng y Koovakad làm việc tại Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, trong phân bộ Các Vấn đề Tổng quát. Năm 2021, Đức Thánh Cha đã giao cho ngài trách nhiệm tổ chức các chuyến tông du. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2024, ngài được bổ nhiệm làm Tổng giám mục hiệu tòa Nisibi thuộc Giáo hội Chaldea, và được thụ phong giám mục vào ngày 24 tháng 11 cùng năm tại Changanacherry bởi Đức Tổng Giám mục trưởng Raphael Thattil của Ernakulam-Angamaly, Giáo hội Siro-Malabar. Ngài được thăng Hồng y tại Công nghị Hồng y ngày 7 tháng 12 năm 2024, thuộc Đẳng Phó tế với Nhà thờ Hiệu tòa Thánh Antôn Padua tại Circonvallazione Appia.

 

Vatican News

 

Vatican News -

HĐGM Hoa Kỳ lạc quyên thường niên giúp Giáo hội Mỹ châu Latinh 

Ngày 07/01, Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã công bố khởi động đợt lạc quyên thường niên nhằm hỗ trợ sứ vụ của Giáo hội ở các khu vực của Trung và Nam Mỹ cũng như vùng Caribe.

Trong thông báo gửi đến các tín hữu, Đức cha Daniel H. Mueggenborg, Giám mục của Reno, Nevada, Chủ tịch Uỷ ban Lạc quyên Quốc gia của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ viết: “Với sự hỗ trợ của anh chị em, đợt lạc quyên cho Giáo hội ở châu Mỹ Latinh giúp nhiều người nghèo và người bị gạt ra ngoài lề xã hội trải nghiệm tình yêu Thiên Chúa và chia sẻ tình yêu đó với những người lân cận của họ”.

Đức cha cũng nhắc đến mẫu gương của Chân phước Stanley Rother, linh mục của Oklahoma, đã chịu tử đạo ở Guatemala khi dấn thân phục vụ những người Công giáo Mỹ Latinh đang cần giúp đỡ nhất. Hoạt động vì người nghèo của cha Stanley Rother đã đe doạ đến lợi ích của những người có quyền, vì thế họ đã ra tay sát hại ngài.

Chủ tịch Uỷ ban Lạc quyên Quốc gia của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ chia sẻ: “Chứng tá anh hùng này đã truyền cảm hứng cho ơn gọi linh mục của tôi, và tôi cảm nhận sự liên đới với những người Công giáo ở Mỹ Latinh. Cuộc lạc quyên cho Giáo hội ở Mỹ Latinh là cơ hội để tất cả chúng ta đáp lại lời kêu gọi đó. Việc này không đến nỗi làm chúng ta mất mạng sống, nhưng một sự hy sinh về tài chính, dù là nhỏ, sẽ tạo nên tác động tích cực đến cuộc sống của nhiều người”.

Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ cho biết, năm ngoái, chương trình hỗ trợ các Giáo hội Mỹ Latinh nhận được 6,2 triệu đô la, và đã chuyển đến hơn 250 điểm mục vụ, những nơi mà Giáo hội khó có thể tiếp tục hoạt động nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài.

Hơn một nửa số tiền được sử dụng để trang trải các nhu cầu mục vụ, khoảng 28% dành cho cứu trợ thiên tai và khoảng 20% hỗ trợ ơn gọi và đào tạo giáo sĩ và tu sĩ.

Cụ thể, tại Haiti, 330 lãnh đạo giáo dân đã được đào tạo về giáo lý xã hội Công giáo liên quan đến sinh thái, kết hợp với các hoạt động cải tạo đất và nước, và tái trồng rừng để ngăn xói mòn. Tại Honduras, Giáo phận Choluteca đã nhận được sự hỗ trợ để phục vụ người di cư đến từ châu Mỹ Latinh, châu Á và châu Phi như một phần của chương trình kết hợp loan báo Tin Mừng cho người nghèo với sự tôn trọng và nhạy cảm xã hội. Đối với Cộng hòa Dominica, quỹ hỗ trợ cho 18  thiếu nữ gia nhập đan viện Thánh Clara. Ngoài ra, số tiền trên cũng hỗ trợ cho việc tổ chức Đại hội Thánh Thể Quốc tế diễn ra tại Ecuador, và chương trình xã hội của Tổng Giáo Phận San Salvador de Bahía ở Brazil.

Với công bố đợt lạc quyên này, nhiều giáo phận ở Hoa Kỳ sẽ bắt đầu quyên góp vào cuối tuần ngày 25-26/01.

 

Vatican News

 

Vatican News -

VATICAN CÔNG BỐ LOGO CHÍNH THỨC CỦA NĂM THÁNH 2025 

Trong cuộc họp báo ngày 28/6/2022, Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella, nguyên Chủ tịch Hội đồng Toà thánh về Tái truyền giảng Tin Mừng trước đây, hiện là Quyền Tổng trưởng Bộ Truyền giáo, đã công bố logo chính thức của Năm Thánh sẽ được tổ chức vào năm 2025 với chủ đề “Những người hành hương của hy vọng”.

Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella nhắc lại rằng khi các công việc chuẩn bị bắt đầu trong Giáo hội cho Năm Thánh, Hội đồng Toà thánh về Tái truyền giảng Tin Mừng trước đây đã phát động một cuộc thi dành cho tất cả mọi người, để sáng tạo logo.

Ngài cho biết có tổng cộng 294 bài dự thi đã được gửi từ 213 thành phố và 48 quốc gia khác nhau, và những người tham gia có độ tuổi từ 6 đến 83. Có nhiều bài vẽ tay của các trẻ em với tràn đầy trí tưởng tượng và đức tin đơn sơ.

Vào ngày 11/6/2022, Đức Tổng Giám mục Fisichella đã đệ trình ba bản chung kết lên Đức Thánh Cha để chọn ra một bản vẽ khiến ngài cảm động nhất. Đức tổng cho biết: “Sau khi xem xét các dự án nhiều lần và bày tỏ ý thích của mình, Đức Thánh Cha đã chọn bản thiết kế của Giacomo Travisani.”

 

Ý nghĩa logo

Giải thích về logo, tác giả Giacomo Travisani cho biết mình đã tưởng tượng cách thế tất cả mọi người cùng nhau tiến bước, có thể tiến bước “nhờ ngọn gió Hy vọng là Thánh giá của Chúa Kitô và chính Chúa Kitô.”

Logo trình bày bốn nhân vật cách điệu, biểu thị tất cả nhân loại từ bốn phương của trái đất. Mọi người đều ôm nhau, biểu thị tình liên đới, huynh đệ đoàn kết các dân tộc. Người thứ nhất đang bám vào Thánh giá. Những con sóng bên dưới vỗ mạnh để chỉ ra rằng cuộc hành hương của cuộc sống không phải lúc nào cũng trên mặt nước phẳng lặng.

Bởi vì các hoàn cảnh cá nhân và các sự kiện thế giới thường mời gọi một cảm giác hy vọng lớn hơn, một mô tả của logo với phần dưới của Thánh giá được thuôn dài biến thành mỏ neo, làm im chuyển động của các ngọn sóng. Mỏ neo thường được sử dụng như ẩn dụ cho hy vọng.

Hình ảnh cho thấy cuộc hành trình của người hành hương không phải là cá nhân, mà là mang tính cộng đồng, với những dấu hiệu của một sự năng động ngày càng tiến về phía Thánh Giá.

Đức tổng Fisichella gợi ý: “Thánh giá không tĩnh tại, mà là năng động, hướng đến và gặp gỡ nhân loại như thể không muốn bỏ mặc nó, mà là mang đến sự chắc chắn về sự hiện diện của Thánh giá và sự bảo đảm của hy vọng”.

Châm ngôn của Năm Thánh 2025, “Những người hành hương của hy vọng”, màu xanh lục, cũng được thấy rõ.

 

Hồng Thủy

 

Tìm Hiểu & Sống Thánh Lễ -

Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐI LỄ NGÀY CHÚA NHẬT 

Tại sao đạo Công Giáo lại bắt các tín hữu phải đi lễ vào Chúa Nhật? Con đi lễ từ thứ hai đến thứ bảy chẳng lẽ không bằng một người chỉ đi lễ ngày Chúa Nhật à?

Chào bạn,

Bất cứ một tôn giáo nào cũng có những buổi cử hành lễ tế như là một hành vi thờ phượng dành cho Đấng Tối Cao của mình. Đối với người Công Giáo, hành vi thờ phượng được cho là cao nhất chính là việc hiệp cùng với vị linh mục dâng thánh lễ. Trong thánh lễ ấy, chúng ta tái hiện lại cuộc tế lễ năm xưa Đức Giêsu đã dâng trên cây thập giá. Người dâng là Đức Giêsu, của lễ dâng lên Chúa Cha cũng chính là Đức Giêsu. Thánh lễ là một cuộc quy tụ của cả vũ trụ hướng về tâm điểm Giêsu, để cùng Giêsu hướng về Cha. Bởi thế, ơn ích mà một thánh lễ mang lại là rất lớn và không sao đo lường được. Tự bản chất, thánh lễ là vô giá, dù nó được cử hành ở nơi trang nghiêm như các Vương Cung Thánh Đường rộng lớn hay nơi một nhà tù dơ bẩn ẩm thấp, dù do Đức Giáo Hoàng chủ sự hay một cha già nằm trên giường bệnh dâng. Vậy nếu thánh lễ là vô giá thì dù bạn đi lễ ngày thường hay ngày Chúa Nhật thì xét về mặt ơn ích, bạn vẫn lãnh nhận được cùng một ơn lành.

Việc muốn các tín hữu đi lễ ngày Chúa Nhật như một điều bắt buộc không liên quan đến tính giá trị của một thánh lễ (vì như đã nói ở trên, thánh lễ nào cũng đều vô giá cả), nhưng liên quan đến ý nghĩa đặc biệt của ngày Chúa Nhật và mức độ ưu tiên của nó hơn những ngày khác trong tuần. Thiên Chúa là Đấng vượt trên không gian và thời gian, nếu đối với Ngài, ngày nào cũng như ngày nào. Nhưng đối với con người thì không như vậy. Không chỉ riêng trong lĩnh vực tôn giáo, nhưng chính kinh nghiệm bản thân cũng cho chúng ta thấy rằng ngày Chúa Nhật có cái gì đó khác với những ngày khác. Nó là một ngày đặc biệt hơn, chất chứa nhiều ý nghĩa hơn. Chúng ta hãy cùng điểm lại một vài chi tiết trong Kinh Thánh cho thấy ý nghĩa trọng đại có một không hai của ngày Chúa Nhật khiến cho nó trở thành ngày trọng đại để dâng lễ tế. 

Trước hết, trong trình thuật Sáng Thế, tác giả cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã hoàn tất công trình tạo dựng và “ngày thứ bảy [tức là ngày Chúa Nhật của mình] Người nghỉ ngơi và Thiên Chúa chúc lành cho ngày này” (x. St 2,3). Trong sách Xuất Hành, khi ban luật cho dân, Thiên Chúa đã nói rằng “trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Nhưng ngày thứ bảy [ngày Chúa Nhật] là hưu lễ kính Thiên Chúa của ngươi; ngươi không được làm bất cứ việc nào, ngươi và con trai con gái ngươi, tớ trai tớ gái của ngươi. Vì trong sáu ngày, Thiên Chúa đã làm nên trời đất, biển và tất cả mọi sự trong các nơi ấy, nhưng Người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy, bởi thế, Thiên Chúa đã chúc lành cho ngày thứ bảy và tác thành nó” (Xh 20,9-11).

Trong thời gian lưu đày ở Babilon, dân Israel rơi vào khủng hoảng. Họ tự vấn, không biết Thiên Chúa bây giờ ở đâu vì lúc đó không còn Đền Thờ, không còn đất hứa như lời Thiên Chúa đã hứa cùng tổ phụ Apraham và với vua Đa-vít nữa. Chính lúc này, Thiên Chúa cho họ biết rằng Thiên Chúa không còn ngự ở một nơi (Đền Thờ) như trước, nhưng là hiện diện trong một thời gian, đó chính là ngày Sabat (ngày Chúa Nhật). Ngày Sabat là ngày của Thiên Chúa, ngày Thiên Chúa đưa đến hoàn tất tất cả những gì còn dang dở trong công trình tạo dựng. Việc Đức Giêsu làm phép lạ chữa lành các bệnh nhân trong ngày Sabat chính là để thể hiện ý này: Ngài cho thấy mình là Thiên Chúa, đến để hoàn tất công trình cứu độ. (Tiếc thay, những người Pharisêu đã không hiểu, lại còn lên án Đức Giêsu). 

Hơn hết, ngày Chúa Nhật là ngày quan trọng vì đó là ngày là Đức Giêsu – Chúa chúng ta – đã phục sinh. Điều này một lần nữa bổ sung cho tính “hoàn tất” của ngày Chúa Nhật. Với sự phục sinh của Đức Giêsu, ngày Chúa Nhật mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó cho thấy sự hoàn thành của một công trình tạo dựng mới mà Thánh Thần thực hiện nơi Đức Giêsu. Đó cũng chính là đỉnh điểm của ơn cứu độ và là điểm đến của mọi loài thụ tạo trong trời đất. Từ ý nghĩa này, ngày Chúa Nhật được Giáo Hội chọn để tất cả con cái mình ở khắp nơi quy tụ về với nhau, cùng nhau long trọng dâng lên Thiên Chúa Cha lời tạ ơn từ sâu thẳm con tim mình, tưởng nhớ rằng chính vào ngày này là ngày Thiên Chúa hoàn tất mọi sự, ngày mà chúng ta được thánh hoá, ngày ân sủng của Thiên Chúa, “ngày Thiên Chúa làm ra”. Họp nhau vào ngày Chúa Nhật tại thế giới này báo trước một cuộc họp mặt với nhau trong bàn tiệc vĩnh cữu trên trời mai sau. Thánh lễ ngày Chúa Nhật là một lễ tế của toàn thể dân Chúa, nó mang tính chất của một cộng đoàn là toàn thể Giáo Hội. Nó hệt như ngày tất cả con cái về nhà với cha mẹ, thăm cha mẹ, cùng nhau chia sẻ bữa ăn thân mật và trò chuyện vui vẻ với nhau. 

Trong mỗi thánh lễ, Chúa cần hơn hết nơi chúng ta một tấm lòng. Thánh lễ sẽ trở nên vô nghĩa nếu chúng ta chỉ đi vì bắt buộc, vì thói quen. Nếu không vì yêu mến, không xuất phát từ việc ý thức được tầm quan trọng của nó, ta sẽ cảm thấy việc đi lễ là một điều gì đó rất nặng nề. Quả thật, nếu bạn hiểu được ý nghĩa của thánh lễ, đặc biệt là thánh lễ của ngày Chúa Nhật, bạn sẽ không đặt lên bàn cân để so sánh mức độ hơn kém thiệt hơn là các thánh lễ ngày thường với thánh lễ ngày Chúa Nhật. 

Ngoài ra, cũng cần phải ý thức rằng, Thiên Chúa và mẹ Giáo Hội không khắc khe đến độ đòi buộc các tín hữu phải đi lễ ngày Chúa Nhật bằng mọi giá. Nếu bạn gặp phải một lý do nào đó bất khả kháng như bệnh tật, đang ở nơi không có linh mục… thì chỉ cần bạn hướng lòng về Chúa thì cũng đã làm cho Ngài vui lòng rồi. Thử lấy một ví dụ thế này: khi có người yêu, ta có thể quan tâm và tặng quà cho người yêu vào bất cứ ngày nào. Nhưng nếu mình quan tâm, đến thăm và tặng quà cho người yêu vào đúng một ngày nào đó có ý nghĩa đặc biệt của người ấy (sinh nhật…) hoặc của cả hai (ngày Valentine hoặc kỷ niệm ngày quen nhau…) thì điều đó sẽ có ý nghĩa hơn rất nhiều, phải không?

Đến đây, chắc là bạn đã có thể tự trả lời cho câu hỏi của mình rồi nhỉ!

Xin Chúa chúc lành cho bạn!

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ.

 

Noi Gương Thánh Bổn Mạng GX -

THÁNH ANRÊ TRẦN AN DŨNG LẠC – LINH MỤC (1795 - 1839) 

Thánh Anrê Dũng Lạc sinh năm 1795 tại tỉnh Bắc Ninh. Cha mẹ là những người ngoại giáo nghèo. Năm cậu Trần An Dũng Lạc 11 tuổi thì cha mẹ di chuyển gia đình tới Hà Nội để tìm cách mưu sống. Vì gia đình quá nghèo nên cha mẹ cậu gửi gắm cậu cho một Thầy Giảng giúp đỡ nuôi dưỡng, cho cậu ăn học. Cậu là một đứa trẻ rất thông minh, có trí nhớ lạ lùng, chỉ trong một tuần lễ cậu đã học hết cuốn sách giáo lý. Tính tình hiền lành, lại rất ngoan ngoãn, siêng năng chu toàn với mọi công việc được giao phó. Năm 12 tuổi, cậu được  Rửa Tội,  nhận tên thánh là Anrê. Sau đó cậu được gửi vào trường Vĩnh Trị do cha Leroy Lan làm Bề trên. Tại trường Vĩnh Trị, cậu siêng năng cần mẫn. Cậu học chữ Nho và La tinh một cách mau chóng và dễ dàng. Cậu có năng khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người một cách lịch thiệp hoà nhã. Các bạn đồng lớp nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là cậu đã nhớ thuộc lòng. Sau 8 năm ở trường Vĩnh Trị, cậu lãnh bằng Thầy Giảng.

Sau 10 năm làm Thầy Giảng và học tiếp 3 năm Thần học, ngày 15 tháng 3 năm 1823 thầy Anrê Trần An Dũng Lạc được Đức Cha Longer phong chức linh mục cùng lớp với thánh Ngân và thánh Nghi. Lúc đó, cha Dũng Lạc mới 28 tuổi. Sau đó, cha Dũng Lạc được bổ nhiệm làm cha phó xứ ở Đồng Chuối, giúp cha Khiết, rồi giúp cha Thi ở xứ Đoài và cha Thuyết ở xứ Sơn Miêng. Một thời gian sau, Đức Giám mục bổ nhiệm cha về làm chánh xứ giáo xứ Kẻ Đầm. Lúc ấy, cha Anrê Trần An Dũng Lạc đã 40 tuổi. Dù là cha phó hay cha chánh, dù ở bất cứ nơi nào, cha cũng đưọc mọi người yêu quý vì tính tình hiền hoà, xử sự khôn ngoan, lại giảng giải sốt sắng, dễ hiểu. Đối với giáo dân, cha dễ dãi, hoà đồng, vui vẻ. Nhưng với chính mình thì cha rất nhiệm nhặt trong cách ăn mặc. Cha ăn chay hằng tuần trong các ngày thứ Tư và thứ Sáu. Cha luôn quan tâm giúp đỡ những người nghèo khó, ưu ái chia sẻ cơm áo cho những người cần tới cha. Cha hết lòng hy sinh với nhiệm vụ của một chủ chăn. Cha ân cần lo lắng tới đời sống thiêng liêng của từng giáo dân.

Ngày 6 tháng 1 năm 1833 vua Minh Mạng ban hành sắc chỉ cấm đạo một cách gay gắt, cha phải ẩn trốn tại các gia đình tín hữu, nay ở nhà này mai ở nhà kia. Nhưng rồi tình hình cũng không yên ổn nên cha lại phải trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó.

Một hôm trong năm 1835 khi cha vừa dâng lễ xong tại Kẻ Sui thì quân lính xông tới. Cha vội cởi áo lễ trao cho mấy người tín hữu cất giấu còn cha thì ngồi lẫn lộn trong đám dân đông đảo. Quân lính tới bắt cha cùng với 30 người khác. Ông tổng Thìn phải đưa 6 nén bạc cho quan Hào Khánh ở Đôn Thư xin dàn xếp với quan phủ cho cha khỏi bắt. Quan huyện Hào Khánh lấy 4 nén bạc còn 2 nén cho người nhà quan phủ và trình rằng: “Cậu tôi về xem lễ ở Kẻ Sui mà quan bắt thì xin tha”. Quan tha cho cha còn những người khác thì sau đó cũng lần lượt được tha hết. Từ đây quan quân đã biết tên cha Trần An Dũng, nên cha đổi tên là Lạc. Vì thế, cha mới có tên là Trần An Dũng Lạc.

Lần khác, khi cha tới Kẻ Sông lén lút gặp cha Phêrô Trương Văn Thi để xưng tội thì không may bị lý Pháp là lý trưởng làng Kẻ Sông theo dõi, đưa gia nhân tới đột kích bắt hai cha. Tín hữu nghe tin hai cha bị lý Pháp bắt thì kéo nhau tới đông đảo xin lý Pháp tha cho hai cha. Lý Pháp đòi các tín hữu phải nộp 200 quan thì sẽ tha. Các tín hữu gom góp chỉ được 100 quan thì lý Pháp nhận 100 quan và chỉ tha cho cha Dũng Lạc còn cha Phêrô Trương Văn Thi thì bị bắt giải lên nộp cho quan huyện Bình Lục. Cha Anrê Trần An Dũng Lạc được tha, nhưng trên đường trở về thì lại gặp trời mưa to gió lớn, thuyền cha phải ghé vào bờ trú ẩn tại ngôi nhà quen thân thì đột nhiên lại bị một bọn lính khác tới khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba, bị trói giải về nộp cho quan huyện Bình Lục, còn các người khác sợ hãi bỏ chạy trốn hết. Về tới huyện cha Dũng Lạc lại gặp cha Trương Văn Thi cũng đã được giải về nộp cho quan huyện Bình Lục. Thế là từ đây số phận của hai cha dính liền với nhau, cùng bị giam, bị tra khảo, cùng chết và cùng lãnh nhận triều thiên Tử Đạo trên thiên quốc cùng một ngày với nhau.

Tại huyện Bình Lục, quan huyện xử đối với hai cha rất tử tế. Quan truyền cho lính dọn cơm cho hai cha bằng mâm và chén bát của mình. Quan thấy cha Trương Văn Thi già yếu, quan hỏi lính cha có chăn mền không thì lính thưa là cha có chăn mền nhưng ông lý Pháp đã tịch thu tất cả của cha rồi. Quan nghe nói thì nóng giận quát lớn: “Bảo thằng lý Pháp phải trao trả lại cho cha”. Có lần quan huyện Bình Lục đã tâm sự với hai cha rằng: “Thưa hai Cụ, phép triều đình cấm đạo và giết các Cụ, chứ không phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này”.

Nghe quan thế nói, các cha chỉ mỉm cười. Mặc dù bị giam nhưng hai cha vẫn vui vẻ chuyện trò với mấy anh lính canh. Có người hỏi cha: “Các Cụ bị bắt mà sao các cụ nói chuyện vui vẻ thế, các Cụ không sợ chết à?” Cha Dũng Lạc vui vẻ trả lời: “Vua cấm đạo và Đức Cha Trời định cho tôi phải bị bắt. Tôi không sợ. Trái lại, tôi lại vui vì được chịu khó vì Chúa tôi thờ”.

Giữ hai cha ba ngày tại huyện, sau đó quan huyện Bình Lục tiễn hai cha xuống thuyền, đưa hai cha về Hà Nội nộp cho quan đốc tỉnh. Biết tin hai cha phải về Hà Nội, các tín hữu kéo nhau tới thương khóc từ giã hai cha rất đông. Nhiều tín hữu đã góp tiền và trình với Đức Cha Retord Liêu và Đức Cha cũng đồng ý để họ đưa tiền tới xin chuộc hai cha. Nhưng cha Dũng Lạc nghĩ rằng đây là lần thứ ba đã bị bắt, chắc là ý Chúa muốn như thế nên cả hai cha đã không đồng ý để giáo dân đem tiền tới xin chuộc hai cha. Lúc tiễn hai cha xuống thuyền, nhiều người đi theo gào khóc rất thảm thiết. Thấy vậy, quan huyện lấy làm lạ nói: “Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc than khóc quá như vậy?” Nghe quan huyện hỏi như thế, một bà cụ đứng gần đó đáp lại: “Bẩm quan, các cha dạy chúng tôi những điều tốt lành, không cờ bạc, rượu chè, dy vợ chồng phải thuận thảo, thủy chung với nhau như trong đạo lý răn dạy. Tại sao lại giết người lành như thế ?”

Bước xuống thuyền rồi, hai cha thấy dân chúng thương khóc quá sức như vậy thì hai cha xin quan nói mấy lời để an ủi và khích lệ mọi người hãy sống đạo tốt lánh hơn: Hãy yêu thương nhau và trung thành với đạo thánh Chúa. Không nên khóc lóc làm gì vì chỉ làm thêm đau khổ cho nhau mà thôi.

Con thuyền đưa hai cha đi Hà Nội, ngày 16 tháng 11 hai cha tới Hà Nội và được đưa ngay vào nhà giam để ngày hôm sau là ngày 17 tháng 11, các cha được đưa ra trước mặt các quan để bị thẩm vấn. Trong một lá thư cha Dũng Lạc viết cho Đức Cha Jeantet đã kể lại rằng: Ngày 17 tháng 11 quan đã nộp chúng con cho quan án để truyền lệnh bắt chúng con phải bước qua Thập Giá. Vì chúng con cương quyết không chịu bước qua nên sáu anh lính đã xông tối khiêng nhắc bổng chúng con lên đưa qua Thập Giá, cha Phêrô Thi đã ôm được Thập Giá và hôn kính. Còn con thì con co chân lên rất cao và nói với họ: “Hãy chặt chân tôi đi. Tôi rất vui lòng chứ đừng hy vọng tôi bỏ đạo”. Sau đó các quan hỏi con: “Tại sao đạo lại không cho phép thờ kính tổ tiên?” Con trả lời: “Nếu có ai chào cha mẹ khi các ngài đang ngủ, thì không kể là tôn kính, vì các ngài ngủ không biết gì. Cũng một lẽ ấy còn một mạnh mẽ hơn đối với những người đã chết.”

Ngày 19 tháng 11 các quan lại gọi chúng con ra tòa lần thứ hai để khuyên dụ và ép buộc chúng con bước qua Thập Giá. Lần này các quan bắt chúng con phải đeo gông nặng hơn. Tới ngày 21 tháng 11 thì họ lại thay gông bằng xiềng xích. Xiềng xích của cha Phêrô Thi nhẹ hơn xiềng xích của con. Con thương cha Phêrô Thi vì già yếu mà phải chịu nhiều cực hình quá. Nhiều lúc con ngồi suy nghĩ mà chảy nước mắt vì nhớ tới những anh em Thừa Sai đang phải trốn tránh để rao giảng Tin Mừng của Chúa.

Nhận được thư của cha Anrê Dũng Lạc, Đức Cha Jeantet vội biên mấy lời khích lệ và an ủi hai cha, khuyên hai cha vững lòng bền chí, can đảm chịu mọi sự khó. Đức Cha và mọi người đều sốt sắng cầu nguyện cho hai cha luôn xứng đáng là những chiến sĩ Đức Tin vững mạnh của Chúa. Được thư của Đức Cha, hai cha vui mừng và xúc động. Cha Dũng Lạc viết lại để cám ơn Đức Cha. Trong thư cha viết: “Chúng con vô cùng an ủi và xúc động chảy nước mắt khi đọc thư của Đức Cha. Chúng con thật lòng biết ơn vì nhờ Đức Cha và các vị Thừa Sai mà chúng con được biết Chúa. Chúng con không biết phải nói làm sao để diễn đạt lòng biết ơn sâu xa của chúng con. Trong nhà tù này rất khó khăn để viết thư cũng như để nhận thư. Xin Đức Cha hiểu cho lòng trung tín và hiếu thảo của chúng con. Xin Đức Cha cầu nguyện cho chúng con trung thành với Chúa và luôn sẵn lòng vui vẻ được chết vì Chúa. Lòng chúng con tin vững mạnh nơi Chúa như núi Thái.

Tình trạng ngồi tù kéo dài mãi, hai cha nóng lòng chờ đợi giờ phút được đổ máu ra để làm chứng nhân cho Chúa, mãi tới ngày 30 tháng 11, các quan cho gọi hai cha ra toà. Trước hết các quan khuyên dụ hai cha bước qua Thập Giá và bỏ đạo. Khuyên dụ mãi không xong, các quan bắt hai cha ký giấy nhận bản án. Sau khi các ngài ký nhận, quan đốc tỉnh nói với quan chánh án: “Bọn chúng bám vào tôn giáo đến nỗi điên khùng. Đạo gì mà làm cho con người mê mẩn đến như thế? Thật khó hiểu!” Nhiều lần bị tra khảo nhưng không bị đánh đập tàn nhẫn như những trường hợp khác, chỉ bị bọn lính tát một hai cái.

Ngày  mồng 1 tháng 11 năm 1839 là ngày lễ kính Các Thánh, cha Trân giả dạng người làm ruộng vào thăm hai cha trong tù. Cha Trân đưa Mình Thánh Chúa cho hai cha. Vừa thấy cha Trân, cha Dũng Lạc vui vẻ chào: “Xin chào bác! Tôi đợi bác thăm nuôi đây”. Sau đó cha Trân trao Mình Thánh Chúa cho cha Dũng Lạc. Hai người nói nhỏ với nhau ít điều rồi cha Trân vội vã rút lui. Cha Dũng Lạc chịu Mình Thánh Chúa rồi âm thầm trao cho cha Thi. Hai cha vui mừng tạ ơn Chúa vì Chúa đã thương tới thăm viếng các Ngài trong nhà tù và tăng sức mạnh để các Ngài thêm mạnh mẽ, can đảm tuyên xưng danh Chúa trước mặt vua quan.

Vài tuần lễ sau, các Ngài được lệnh tới gặp quan án. Quan chánh án đưa bản án do vua Minh Mạng châu phê để các Ngài ký nhận. Sau khi ký nhận bản án, cha Dũng Lạc trở về nhà giam vui vẻ, cao hứng làm một bài thơ diễn tả tâm sự gửi cho cha bạn là cha Thực. Bài thơ như sau:

Lạc rầy đã rõ chốn quân quan

Bút chép thơ này gửi thở than

Lòng nhớ bạn, vẫn còn vất vả

Dạ thương khách, chạy chữa yên hàn

Đông qua tiết lại thì xuân tới

Khổ trảm mai sau hưởng phúc an

Làm kẻ anh hùng chi quản khó

Nguyện xin cùng gặp chốn Thiên Đàng.” 

Sáng ngày 21 tháng 12 năm 1839, quan quân tới nhà giam công bố lệnh xử án và truyền lệnh ra pháp trường. Hai cha vui mừng tạ ơn Chúa. Các ngài hát mấy câu kinh tạ ơn “Te Deum” bằng Latin rồi chuẩn bị sẵn sàng theo đoàn quan quân tiến ra pháp trường lãnh án chém đầu để làm chứng nhân cho đạo thánh Chúa. Trên đường đi, các Ngài vui vẻ, nét mặt tươi vui hớn hở. Cha thánh Dũng Lạc chắp tay vừa đi vừa cầu nguyện. Tới nơi xử, các Ngài quỳ trên chiếc chiếu đã được các tín hữu đã trải sẵn. Người lý hình tiến lại nói nhỏ với cha: “Chúng tôi không biết các Thầy có tội gì. Chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên bắt chúng tôi phải làm. Xin các Thầy đừng chấp chúng tôi. Xin các Thầy cầu nguyện cho chúng tôi khi các Thầy về Trời”. Cha Dũng Lạc tươi cười nói với các anh: “Quan lớn đã truyền, các anh cứ thi hành”.

Sau đó hai ngài cầu nguyện ít phút rồi nghiêng đầu cho lý hình chém. Nhiều người đứng chứng kiến đã kể lại rằng họ đã nhìn thấy một con chim trắng to lớn hơn chim bồ câu bay lượn trên các ngài lúc các ngài bị hành quyết. Hôm đó là ngày 21 tháng 12 năm 1839 tại pháp trường cửa ô Cầu Giấy, Hà Nội, giáp đường lên tỉnh Tây Sơn. Thi hài cha thánh Dũng Lạc được đưa về an táng tại nhà bà Lý Qúy, gần Cầu Giấy, Hà Nội.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã tôn phong cha Dũng Lạc lên bậc Chân Phước cùng với cha thánh Phêrô Trương Văn Thi ngày 27 tháng 5 năm 1900, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng hai Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.

 

Tác giả Lm. Nguyễn Đức Việt Châu

 

Hãy Luôn Sống Kết Hiệp Với Chúa Giê-su Thánh Thể -

KINH RƯỚC LỄ THIÊNG LIÊNG 

Lạy Đức Chúa Giêsu, con tin thật Chúa con ngự trong Phép Mình Thánh, con kính mến Chúa con trên hết mọi sự, cùng ước ao chịu lấy Chúa con trong linh hồn con. Song le bởi vì bây giờ con chẳng có thể mà chịu Chúa con cho thật được, thì xin Chúa con ngự vào linh hồn con cách thiêng liêng vậy, chẳng khác gì như Chúa con đã ngự vào thật, thì con xin ẵm lấy cùng hợp làm một cùng Chúa con cho trọn, xin Chúa con chớ để cho con lìa bỏ Chúa con bao giờ. Amen. 

Spiritual Communion Prayer

My Jesus, I believe that you are present in the most Blessed Sacrament. I love You above all things and I desire to receive You into my soul. Since I cannot now receive You sacramentally, come at least spiritually into my heart. I embrace You as if You were already there, and unite myself wholly to You. Never permit me to be separated from You. Amen.

Prière de communion spirituelle 

Mon Jésus, je crois que vous êtes ici présent dans le Saint-Sacrement. Je vous aime par-dessus tout chose et je désire ardemment vous recevoir dans mon âme. Puisque je ne puis, à cette heure, vous recevoir sacramentellement, venez au moins spirituellement dans mon cœur. Comme si vous y étiez déjà présent, je vous adore et tout entier je m’unis à vous. Ne permettez pas que je me sépare jamais de vous. Amen.

 

Tìm Hiểu & Sống Thánh Lễ -

HÃY TRỞ LẠI VỚI THÁNH LỄ!

Tại sao Thánh lễ có tầm quan trọng quyết định như thế? Công đồng Vaticanô II dạy cách xác tín rằng Bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh đời sống Kitô hữu” – điều đó có nghĩa là: Kitô giáo đích thực phát xuất từ Thánh Thể và quy hướng về Thánh Thể... 

CÂU CHUYỆN SUY TƯ
HÃY TRỞ LẠI VỚI THÁNH LỄ!

Mười lăm tháng qua là thời gian khủng hoảng và nhiều gay go đối với đất nước chúng ta [Hoa Kì], và là một thử thách đặc biệt đối với người Công Giáo. Trong suốt giai đoạn COVID kinh khủng này, nhiều người trong chúng ta bị buộc ngưng tham dự Thánh lễ và Rước lễ. Thật vậy, vô số Thánh lễ và việc tôn sùng Thánh Thể được thực hiện trực tuyến, cám ơn Chúa vì điều này. Nhưng các tín hữu đã biết tận xương tủy rằng sự tham dự trực tuyến như thế tuyệt đối không thay thế cho việc tham dự thật. Bây giờ các cửa nhà thờ đang bắt đầu mở rộng, tôi muốn thúc giục mọi tín hữu đọc những lời này: Hãy trở lại với Thánh lễ!

Tại sao Thánh lễ có tầm quan trọng quyết định như thế? Công đồng Vaticanô II dạy cách xác tín rằng Bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh đời sống Kitô hữu” – điều đó có nghĩa là: Kitô giáo đích thực phát xuất từ Thánh Thể và quy hướng về Thánh Thể. Thánh Thể là khởi nguyên và cùng tận của đời sống tâm linh, vừa là con đường vừa là cùng đích của người môn đệ Chúa Kitô. Các Giáo phụ đã mạnh mẽ dạy rằng Bí tích Thánh Thể là lương thực ban sự sống đời đời. Các ngài muốn nói rằng theo mức độ chúng ta tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giêsu, chúng ta được chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống với Ngài ở đời sau. Thánh Tôma Aquinô đã nói rằng tất cả các Bí tích khác chứa đựng quyền năng của Chúa Kitô (virtus Christi) còn Bí tích Thánh Thể chứa đựng chính Chúa Kitô (ispe Christus) – và điều này giúp giải thích lí do thánh Tôma không thể dâng Thánh lễ mà không đầm đìa nước mắt. Chính nơi Thánh Lễ mà chúng ta được ban đặc ân lãnh nhận tặng phẩm có một không hai này. Chính nơi Thánh Lễ chúng ta nhận được thứ lương thực không thể thiếu. Không có Thánh Thể, tâm linh chúng ta chết đói.

Nếu tôi mở rộng phạm vi một chút, tôi xin nhắc lại rằng, cách chung, Thánh Lễ là nơi dành riêng để gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Trong Phụng vụ lời Chúa, chúng ta không đơn thuần nghe những lời của con người do các thiên tài thi ca soạn ra, mà đúng hơn là lời của Ngôi Lời. Trong các bài đọc, đặc biệt bài Tin Mừng, chính Chúa Kitô nói với chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta thưa lại với Người, bước vào bên trong cuộc đối thoại với Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Rồi tiếp đến, trong Phụng vụ Thánh Thể, cũng chính Chúa Giêsu, Đấng đã mở lòng với chúng ta, hiến dâng Mình và Máu của Người cho chúng ta hưởng dùng. Trước khi lên thiên đàng, hoàn toàn không thể có sự hiệp thông nào khác thân tình hơn với Chúa Phục Sinh.

Tôi nhận thấy trong thời COVID này nhiều người Công Giáo dần dần quen với sự dễ chịu khi tham dự Thánh Lễ trực tuyến bởi được thoải mái trong nhà riêng, không phải phiền phức ở bãi đậu xe đông đúc, con nít khóc la, hàng ghế chật ních. Nhưng một điểm then chốt của Thánh Lễ chính là chúng ta đến với nhau để làm thành một cộng đoàn. Khi chúng ta nói, cầu nguyện, hát, và xướng đáp với nhau, chúng ta nhận ra căn tính của mình là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu. Trong lúc cử hành phụng vụ, linh mục thực hiện chức năng với tư cách của Chúa Kitô (in persona Christi), còn những người đã được rửa tội khi tham dự nối kết chính mình một cách biểu trưng với Chúa Kitô là đầu và cùng nhau tiến dâng sự thờ phượng lên Chúa Cha. Có một sự tương tác giữa linh mục và giáo dân trong Thánh lễ rất đỗi quan trọng mặc dù thường không được chú ý tới. Ngay trước lời nguyện trên lễ vật, linh mục nói: “Anh chị em hãy cầu nguyện, để hi lễ của tôi cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận”, và giáo dân đáp lại: “Xin Chúa nhận hi lễ bởi tay cha, để ca tụng tôn vinh danh Chúa, và mưu ích cho chúng ta cùng toàn thể Hội Thánh Người”. Ngay lúc đó, đầu và các chi thể kết nối với nhau một cách có ý thức để làm nên một hi lễ hoàn hảo dâng tiến Chúa Cha. Vấn đề là điều này không thể xảy ra khi chúng ta bị phân tán trong nhà riêng của mình và ngồi trước màn hình máy tính.

Nếu tôi nói về tầm quan trọng của Thánh lễ bằng một hình thức tiêu cực hơn, Hội Thánh đã dạy cách vững chắc rằng người Công Giáo đã được rửa tội có bổn phận đạo đức phải dự lễ Chúa Nhật, và việc cố ý bỏ lễ, không có lí do chính đáng, là tội trọng. Tôi hiểu rằng những lời này làm cho nhiều người ngày nay khó chịu, nhưng nó không có ý như vậy, bởi vì nó hoàn toàn phù hợp với mọi điều chúng ta đã nói về Thánh lễ cho tới điểm này. Thật vậy, nếu Phụng vụ Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, là cuộc gặp gỡ đặc thù với Chúa Giêsu Kitô, là thời điểm Thân Thể Mầu Nhiệm tự biểu lộ trọn vẹn nhất, là đón nhận Bánh Bởi Trời – thì, nói theo nghĩa thiêng liêng, chúng ta tự đặt mình vào mối nguy hại vô cùng lớn khi chủ động tránh xa Thánh lễ. Như một bác sĩ lưu ý bạn đang gây hại cho cuộc sống của mình do ăn các loại thức ăn nhiều chất béo, hút thuốc, và không chịu tập thể dục, cũng vậy vị bác sĩ linh hồn sẽ nói với bạn rằng việc bỏ tham dự Thánh lễ đang làm tổn hại sức khỏe tâm linh của bạn. Dĩ nhiên, như tôi nhắc đến ở trên, luật Hội Thánh vẫn luôn là một cá nhân có thể quyết định không đi Lễ vì những lí do chính đáng – và dĩ nhiên điều này vẫn còn được áp dụng trong những ngày đại dịch đang dần dịu đi.

Nhưng xin hãy trở lại với Thánh lễ! Tôi xin đề nghị bạn dẫn theo một người, là người đã vắng quá lâu hoặc có thể đã chìm sâu trong sự thoải mái suốt thời Covid. Hãy để cho nỗi khao khát Thánh Thể của bạn đánh thức thôi thúc truyền giáo trong bạn. Hãy rước những người từ khắp các nẻo đường lớn nhỏ; hãy mời các đồng nghiệp và các thành viên trong gia đình bạn; hãy gọi các trẻ em dậy vào sáng Chúa Nhật; hãy tắt máy tính. Hãy trở lại với Thánh lễ!

Tác giả: Đức cha Robert Barron

Việt Tâm chuyên ngữ từ wordonfire.org (09.6.2021)

 

DIOCESAN NEWS -

WHY DO WE HAVE AN OBLIGATION TO ATTEND MASS?-I

16 April 2021

A Catechesis on the Third Commandment in Light of the Resurrection by Father Andrew Heaslip, Diocesan Director of Religious Education, Diocesan Coordinator of Digital Media, Director of the TV Mass for the Homebound.

In his press release issued on Wednesday of Holy Week restoring the Sunday and holy day Mass obligation, Bishop Conley mentioned that the Southern Nebraska Register would be publishing a catechetical series on this obligation.

In my last article on livestreaming the Mass, I attempted to share my personal, and to some extent, catechetical reflections on why livestreaming the Mass is a blessing, albeit an awkward one, and even more why it is necessarily more valuable to be physically and spiritually present at the Mass whenever it is available.

In this article I’d like to shift from those personal and partly catechetical reflections to a catechesis specifically on the third commandment in light of the Resurrection of Jesus because it is here where we will begin to understand the context of why there is a Sunday Mass obligation in the first place.

The goal of this catechesis, then, is to understand the meaning of the third commandment in the Old Covenant, in order to clearly see how its obligatory nature both continues and is fulfilled in the New Covenant by the practice of keeping holy the Lord’s Day, that is, the day on which the Lord Jesus rose from the dead.

 

The Third Commandment

In the book of Exodus, we learn that God revealed to the people of Israel on Mt. Sinai the commandment, “Remember the sabbath day, to keep it holy. Six days you shall labor, and do all your work; but the seventh day is a sabbath to the LORD your God; in it you shall not do any work… for in six days the LORD made heaven and earth, the sea, and all that is in them, and rested the seventh day; therefore the LORD blessed the sabbath day and hallowed it” (20:8-11).

We see in this text that the third commandment is deeply tied to the six days of creation. In fact, the word sabbath (sabbath) means the seventh day of the week and a day of rest; it is derived from the Hebrew word sabbath which means “to cease or to rest.” The idea here is that the Sabbath is the day on which God ceased his work of creation in order to bring rest and blessing to the seventh day. Hence, in the Old Covenant, the observance of the Sabbath entailed, among other things, remembrance of the Lord’s work of creation and rest from work and manual labor.

Moreover, like all of the Ten Commandments, the third commandment too was given in the context of God’s work of liberating or redeeming the people of Israel from slavery.

The Decalogue (Ten Commandments) begins with the words, “I am the LORD your God, who brought you out of the land of Egypt, out of the house of bondage” (Ex 20:2). Likewise, the expression of the third commandment in Deuteronomy adds, “You shall remember that you were a slave in the land of Egypt, and the LORD your God brought you out thence with a mighty hand and an outstretched arm; therefore the LORD your God commanded you to keep the sabbath day” (15:5).

We see here that the third commandment is deeply tied also to God’s work of redemption or liberation from slavery, that is, when He freed his people from Egypt and formed a covenant relationship with them on Mt. Sinai. Hence, in the Old Covenant the obligation of remembrance “You shall remember” includes God’s work not only of creation but also of redemption.

In the third commandment, then, we not only learn of the sacred importance of the Sabbath and the requirement or obligation to keep it holy through remembrance and rest but also discover the deepest reasons for this obligation: the Sabbath is directly connected to the blessing and holiness of the Lord’s work of creation and to the mighty power of His liberating work of redemption.

 

Sabbath to Sunday

The first question that ordinarily arises in view of the third commandment to keep holy the Sabbat (that is, the seventh day, Saturday) is why do Christians observe this commandment not on Saturday but on Sunday? Indeed, among the most traditional enumerations of the Commandments in the Church we find the third Commandment expressed, “Remember to keep holy the Lord’s Day.”

In apostolic times we hear this same reference; for example, in the book of Revelation, a book with profound liturgical undertones, St. John says, “I was in the Spirit on the Lord’s day...” (1:10). Likewise, one of John’s disciples, St. Ignatius of Antioch who died around 108 AD says, “those who lived according to the old order of things have come to a new hope, no longer keeping the sabbath, but the Lord’s Day.”

Also, St. Justin Martyr witnessed to this distinctive and ancient Christian practice around the year 155 AD when he wrote, “We all gather on the day of the sun, for it is the first day as opposed to the seventh day.” What is clear from these and other ancient accounts is that the movement from Sabbath to Sunday, the Lord’s day, was a distinctive characteristic of the early Christian communities from the beginning. 

 

The Resurrection

This radical shift in religious practice should make us pause because in it there is a profound witness to the Resurrection of Jesus, which is the singular reason it occurred. In first century Judaism there was enormous importance attached to the Sabbath and its observance; we see references to this, for example, throughout first century Jewish texts and even in the Gospels themselves. Hence, “only an event of extraordinary impact could have led to the abandonment of the Sabbath and its replacement by the first day of the week” (Ratzinger, Jesus of Nazareth II).

The extraordinary historical event was the Resurrection of Jesus from the dead on the third day after his crucifixion, that is, at an unknown moment on the first day of the week, Sunday. Only something this remarkable could have brought about such a change in the deeply rooted religious culture surrounding the Sabbath. This change is one of the most convincing arguments from a historical perspective that something astonishing must have occurred at the beginnings of Christianity. 

 

New Creation and Redemption

This event, the Resurrection, is the reason why Christians observe Sunday instead of the Sabbath. Nevertheless, the deepest meaning of the Sabbath and the commandment to keep it holy is in no way abandoned by Christians but rather fulfilled.

We saw that the Sabbath and the biblical expressions of the third commandment were directly tied to the first creation and to Israel’s redemption from Egypt. These events have been fulfilled in Jesus Christ. The Resurrection of Jesus from the dead on the first day of the week, in fact, begins the New Creation. Indeed, the creation of the visible world and of humanity find their meaning and summit in this new creation in Christ, or St. Paul says, “if any one is in Christ, he is a new creation; the old has passed away, behold, the new has come” (2 Cor 5:17).

Likewise, the paschal mystery of Jesus’ suffering, death, and Resurrection has brought Redemption to the human race. God’s work of liberating His people from slavery, Egypt, and pharaoh has come to fulfillment in His Son, Jesus who has redeemed us from sin, the world, and Satan.

Or, again, as St. Paul says, “In him we have redemption through his blood, the forgiveness of our trespasses, according to the riches of his grace which he lavished upon us” (Eph 1:7-8). Thus, the ancient meaning of the Sabbath has come to its culmination in the Resurrection of Christ on the first day of the week. 

 

Remembrance and Rest

Likewise the obligations of the third commandment—to remember and to rest—continue in the New Covenant, but now as a living remembrance, especially in the eucharistic liturgy, of God’s supreme work of redemption and of making us a new creation in Christ, and now as a rest not only from work and servile labor but also as a rest which looks forward in hope to definitively “entering into God’s rest” in eternal life (cf. Heb 4:1-11).

This catechesis on the third commandment in light of the Resurrection hopefully helps us to see why there is a perpetual obligation of remembrance and rest on the Lord’s Day.

Likewise, I hope it helps us begin to understand why even when there is a legitimate dispensation from being present at the eucharistic liturgy or even when one is rightly excused from Mass because he or she is physically or morally prevented from attending, the obligations on Sunday of remembering of the Lord’s redeeming work and of rest that looks toward the definitive rest of eternal life can never be dispensed—the third commandment and its evangelical fulfillment come from God.

In the next catechesis on the Sunday and holy day Mass obligation I hope to continue this consideration on remembrance in view of the first precept of the Church: “You shall attend Mass on Sundays and holy days of obligation.”

This precept, which though at times can be dispensed as we all experienced during COVID-19, is a grave obligation that requires the faithful to participate in the Eucharistic liturgy because the liturgy is the supreme living remembrance which makes present Jesus’ redeeming work of the cross and Resurrection and, indeed, is carried out according to Jesus’ command, “Do this in remembrance of me” (Lk 22:19).

 

WHY DO WE HAVE AN OBLIGATION TO ATTEND MASS?-II 

07 May 2021

A catechesis on the First Precept of the Church in light of Jesus’ institution of the Eucharist by Father Andrew Heaslip, Diocesan Director of Religious Education, Diocesan Coordinator of Digital Media, Director of the TV Mass for the Homebound.

In our last catechesis on keeping holy the Lord’s day and the Resurrection, we saw how the third commandment is deeply tied to creation and redemption, and how the Old Testament obligations of remembrance and rest on the Sabbath are fulfilled in Jesus Christ who brings about the new creation and the redemption of the human race through his cross and in his resurrection on the third day, Sunday.

In this catechesis I would like to draw from our previous reflections and focus on the first precept of the Church in view of Jesus’ institution of the Eucharist when he said, “Do this in remembrance of me” (Lk 22:19). The goal of this catechesis is to help us understand why there is a grave obligation to attend Mass on Sundays and Holy days and, even more, why this obligation is something we should freely want to fulfill whenever it is available. 

 

The First Precept of the Church

The first precept of the Church is, “You shall attend Mass on Sundays and holy days of obligation” (CCC 2042). This precept requires the faithful to participate, that is, to be physically and consciously present at the Eucharistic liturgy when the Christian community gathers together for Sundays and Holy days of obligation. This precept is distinct from but deeply related to the third commandment, as well as other Jewish feasts of remembrance in the Old Covenant, both of which Jesus brought to fulfillment in the New Covenant.

 

Sunday Obligation

We saw in our last catechesis that one of the fundamental obligations of the third commandment is remembering God’s work of creation and redemption: “Remember the sabbath day... for in six days the LORD made heaven and earth... and rested the seventh day” (Ex 20:8-11) and “You shall remember that you were a slave in the land of Egypt, and the LORD your God brought you out thence with a mighty hand…” (Deut 15:5). We’ve already seen how this commandment continues and is fulfilled in the passion and, especially, the resurrection of Jesus on Sunday.

The point I would like to make here is: the precept to participate in the Eucharistic liturgy on Sunday, while distinct from the third commandment, realizes the command of remembrance in the fullest way possible because it is the supreme living remembrance of Jesus’ redeeming work on the cross and in the resurrection. The Mass makes his sacrifice for sins and his risen body actually present – living – and is carried out according to his words, “Do this in remembrance of me” (Lk 22:19). Hence, the part of the first precept of the Church that pertains to Mass on Sunday flows directly from the third commandment’s obligation to remember. 

 

Holy Days of Obligation

What about other holy days of obligation? In addition to the weekly observance of the Sabbath, now fulfilled on the Lord’s day, Sunday, the people of Israel also celebrated many other feasts of remembrance. They occurred on fixed days and seasons of the year and included specific liturgical practices. For example, the great Jewish feast of Passover occurred on the 14th of the first month of the Jewish calendar and obliged the Israelites to celebrate it with specific ceremonies such as families coming together to partake of a Passover lamb. God and his chosen leader, Moses, instituted this feast and its specific liturgical practices, again, for the purpose of remembrance: “that all the days of your life you may remember the day when you came out of the land of Egypt” (Deut 16:3).

Similarly, the holy days of obligation in the New Covenant such as Christmas, Mary the Mother of God, the Ascension, All Saints Day, and the Immaculate Conception occur on fixed days or seasons and oblige God’s people to come together in the liturgy in order to celebrate God’s mighty works which have come to fulfillment in the mysteries of the Christian faith. Likewise, God’s appointed leaders, the successors of the apostles, instituted these holy days of obligation as a means of commemorating (remembering and celebrating) the great mysteries of faith and salvation from which all the family of God benefits. Hence, holy days of obligation are occasions of grace and remembrance; they have a certain connection with and precedent in the feasts of the Old Covenant, yet are ultimately rooted in the life and mysteries of Jesus and the authority of his Church, both of which are a fulfillment of the Old Covenant.

The first precept of the Church, then, has its obligatory character and can be dispensed because it is based in the pastoral authority of the pope and bishops who are the successors of Peter and the apostles who, in turn, were commanded by Jesus to celebrate the Eucharist, “...in remembrance of me.” This is, among other reasons, why there is a grave obligation to attend Mass on Sundays and holy days, and why it can be dispensed for serious reasons such as our recent global pandemic. 

 

The Institution of the Eucharist

The first precept of the Church, moreover, has its deepest reason in the gift that Jesus gave on the night he was betrayed, when he instituted the Eucharist. It is in this gift and the prayerful words and actions surrounding this gift that we discover why we should long for and freely want to participate in the Eucharist. What is this gift? It is the gift of Jesus himself.

When He instituted the Eucharist before His passion, Jesus established the perpetual memorial of his suffering, death, and resurrection which has redeemed the world. This truth is contained in the very words that Jesus used at the last supper. When he took bread, he said, “This is my body which is given for you” (Lk 22:19) and when he took the wine, he said, “this is my blood of the covenant, which is poured out for many for the forgiveness of sins” (Mt 26:28).

An important point to realize here is that these actions and words of Jesus anticipated the sacrifice of his body and the pouring out of his blood on the cross. When he said to the apostles, “do this in remembrance of me,” what they were to remember was not simply the last supper but the crucifixion, its meaning, and the resurrection. The words “given for you” and “poured out for many” which the apostles heard with their ears at the last supper took on meaning only after Jesus’ ordeal of Roman crucifixion when he gave his body to be nailed to the cross unto death, and when the solider lanced his side causing his blood to pour out.

The command of remembrance, however, included not merely the recollection of the physical details of the suffering and death of Jesus but also, and especially, the meaning of them. The cross manifests Jesus’ love “to the end” (Jn 13:1); it is accomplished “for the forgiveness of sins,” “for our sins” (1 Cor 15:3); and it is the beginning of a “new covenant,” that is, a new and living relationship with God in his Son, Jesus. This gift of the Eucharist which Jesus instituted at the last supper and which the apostles were to do in remembrance of him took on its full meaning for them only after the crucifixion and resurrection; and it took them and the early disciples time to awaken to this full meaning. 

 

Remembrance

The scriptural term remembrance, in fact, implies this type of awakening, that is, a realization of the reality of God and the work he has done (see for example, Num 10:10). We see this awakening to God’s work in the accounts of Jesus’ appearances to his disciples after the resurrection. For example, on the road to Emmaus, Jesus converses with two of his disciples who do not realize that it is him. It is only after he opens the scriptures to them about the meaning of the Messiah’s suffering and glory and, most of all, when he takes bread, blesses it, breaks it, and gives it—the same actions he performed at the last supper—that they finally realize or awaken to the reality that it is him. At that moment he vanished from their sight. Yet, he was helping them to realize that he is, and is going to be, present to them in a new way, that is, in the breaking of the bread which is the most ancient name for the Eucharistic liturgy. Indeed, after realizing it was the Lord, those two disciples told the apostles that, “he was made known to them in the breaking of the bread” (Lk 24:35).

It is with this full meaning of remembrance, which includes not only a recollection but also a realization of the living reality, that the apostles and early Church celebrated the Eucharist (see 1 Cor 11:23-27). So, it is with the Eucharistic liturgy in every age: when the Mass is celebrated it is done in remembrance of Christ whose passion and resurrection are not only recalled but also made present.

When we assemble together for the Mass it is truly a time when the Lord awakens us anew to his presence and his work of salvation. Indeed, nothing brings us closer to Jesus and to one another than the celebration of the Eucharist. It is there where we encounter his love to the end, it is there where we are renewed in the new and everlasting covenant relationship with God, and it is there where we can receive the crucified and now Risen Lord. These are the deepest reasons why there is a precept to attend Mass on Sundays and holy days of obligation and they are why we should long to realize this precept.

I hope that this two-part catechesis on the Sunday and holy day Mass obligation has been helpful not only for understanding but also for inspiration. It was written in anticipation of and preparation for May 23, the Solemnity of Pentecost, when this obligation will be restored in the Lincoln Diocese. May the Holy Spirit draw us together anew into Christ Jesus at the Eucharistic liturgy.

 

 

Hãy Đến Với Thánh Lễ Để Lãnh Nhận Nguồn Ơn Cứu Độ -

KHAO KHÁT THÁNH LỄ

Là người Công giáo có trách nhiệm, ai cũng biết rằng mình có bổn phận tham dự thánh lễ ngày Chúa  nhật. Thậm chí lề luật còn quy định, nếu bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng, bị xem là phạm tội trọng.

Nhưng vì quá nhấn mạnh đến khía cạnh tội, lề luật, trách nhiệm, một số người đi lễ Chúa nhật chỉ như việc làm đối phó, đi cho xong bổn phận, gọi là dự lễ nhưng thực tế hoàn toàn không có cái hồn của việc dự lễ.

Trong khi đó, việc tham dự thánh lễ Chúa nhật còn một khía cạnh khác tích cựac hơn nhiều, hạnh phúc hơn nhiều, mạnh mẽ hơn nhiều, đó là: Thánh lễ là ân huệ Chúa ban, và tham dự thánh lễ là đón nhận ân huệ, đón nhận quà tặng vô giá từ Trời.

Ân huệ này, món quà này thật đặc biệt vì chính Chúa Giêsu trao ban nó cho chúng ta trước khi Người lìa bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha.

Nhớ năm ngoái, vào đúng dịp tuần Thánh và Phục sinh, lại là thời gian đỉnh cao của dịch wuhan, chúng ta không thể tham dự thánh lễ. Nhưng nhờ đó, nó trở thành cơ hội tốt để nhiều người còn giữ được tâm hồn sốt sắng, nhìn lại giá trị của món quà vô giá mà bao nhiêu năm tháng Chúa ban cho mình tận hưởng.

Mất những gì đã từng có, vuột khỏi tầm tay những gì đã từng nắm trong tay, ta mới thật sự quý điều mình đã không còn.

Chỉ có như thế mới là cơ hội giúp ta quý trọng mọi thứ Chúa trao ban, nâng niu món quà của Chúa, thèm khát ân huệ vô giá của Chúa.

Rồi khoảng thời gian không thể đến nhà thờ tham dự thánh lễ cũng qua đi. Sự thèm khát thánh lễ có làm nhiều người quý trọng thánh lễ hơn, dự lễ sốt sắng hơn…

Nhưng rồi mọi sự lại đâu vào đấy. Bởi khi nhà thờ được mở cửa liên tục, việc đến nhà thờ dễ dàng hơn, trừ một số người giữ được tâm hồn thực sự hướng về Chúa, đại bộ phận người còn lại, lại tiếp tục cho thấy thái độ hững hờ, dự lễ vì thói quen, dự lễ vì sợ luật buộc, dự lễ vì chẳng lẽ mang tiếng mình là người Công giáo lại chẳng đến nhà thờ…

Nhiều biểu hiện của nhiều người cho thấy, họ dự lễ cho có, cho rồi, chỉ là dự được chăng hay chớ mà thôi…

Ước mong từng người Công giáo, khi đến nhà thờ tham dự chính hy tế tuyệt đối của Chúa Kitô, sẽ tham dự bằng tình yêu, bằng sự chân tình, bằng thái độ nhiệt tình của mình với mọi nỗi khao khát được đến nhà Chúa, được cùng Chúa hiến tế đời mình, dâng lên Chúa con người, đời sống, lo toan và mọi lao nhọc của bản thân, của gia đình và của mọi người thân…

Ước mong mỗi khi đến nhà thờ, mọi người sẽ thấy mình hạnh phúc được cùng Chúa Kitô dâng lên sự tôn thờ dành cho Chúa Cha nhờ ơn thánh hóa của Chúa Thánh Thần, được là người mang ơn cứu độ và gieo vãi ơn cứu độ của Chúa cho chính mình và cho trần thế.

Ước mong khi đến nhà thờ, mọi người mang theo cơn khát được gặp Chúa, gặp anh em mình để càng ngày càng hiệp thông với Chúa và với nhau chặt chẽ, mạnh mẽ hơn.

Ngoài những người còn xem thường việc tham dự hy tế của Chúa trong từng thánh lễ, chúng ta tin tưởng, với lòng yêu mến chân thành của tất cả những ai thiện chí, ơn Chúa, Đấng yêu thương chúng ta, sẽ làm cho đại dịch sớm qua đi, để từng người, mỗi lần lên đền thánh Chúa, sẽ cùng nhau gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ nhau trong hạnh phúc, tin yêu và hy vọng càng lúc càng lớn hơn, dạt dào hơn.

Còn giờ đây, chúng ta hãy để cho cõi lòng mình vang vọng lời Thánh vịnh 41:

Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa. Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống”.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

 

LỜI CHÚA HÀNG TUẦN

Chúa Nhật IV Mùa Chay - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 15,1-3.11-32. 

Vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giê-su mà nghe Người. Còn những người thuộc phái Pha-ri-sêu và các Kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho Cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với Người: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại. Đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng. Lúc ấy người con cả của ông đang ờ ngoài đồng. Khi anh ta về gần nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Trong bài Tin mừng hôm nay đoạn mở đầu (c1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo là chính dụ ngôn trình bày về lòng từ bi nhân hậu của một người cha (c11-32), gồm hai phần chính như sau:

- Thái độ bao dung của cha đối với đứa con thứ: Thể hiện qua các hành động sẵn sàng chia gia tài theo yêu cầu của đứa con ngay khi ông còn sống, nôn nóng chờ mong đứa con đi hoang trở về, chạnh lòng xót thương khi vừa thấy con từ xa và sẵn sàng tha thứ trước khi nó kịp thú tội, lập tức trả lại địa vị làm con, tổ chức bữa tiệc mừng đứa con hoang trở về.

- Thái độ hẹp hòi của con cả: Sau khi biết em đã trở về nhà và được cha không những không trừng phạt mà còn mở tiệc ăn mừng, thì người con cả đã tỏ thái độ hẹp hòi và ganh tị: Không thèm vào nhà, trách cha thiên vị thằng em bất hiếu, khi đối xử bất công với anh là đứa con hiếu thảo. Cuối cùng người cha đã ra gặp và giải tỏa những lời trách móc của người con cả. Ông khuyên anh hãy noi gương ông để bao dung với đứa em tội lỗi vì: “Em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.

 

A. GỢI Ý:

1. Lời hứa từ xa xưa của Thiên Chúa về một vùng Đất Hứa nay sắp thành hiện thực. Trước khi bước vào cuộc chinh phục đất Canaan, dân Israel cử hành nghi lễ nhắc nhớ về giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân qua việc thực hiện việc cắt bì, và mừng lễ Vượt Qua. Thiên Chúa vẫn luôn trung thành với giao ước, dẫn dân vào Đất Hứa, nếu dân đi trong đường lối của Ngài. Tôi có thường nhắc nhớ mình về những gì tôi đã cam kết với Ngài? Tôi có đang giữ những điều khoản của giao ước mà tôi ký kết với Ngài?

2. Đối với thánh Phaolô, Thiên Chúa đi bước trước trong việc hoà giải nhân loại với Thiên Chúa. Qua Đức Kitô và nhờ cái chết của Người, Thiên Chúa không còn chấp tội con người. Việc hoà giải với Thiên Chúa được giao cho thừa tác vụ của Giáo hội. Chính Giáo hội, thừa hành thừa tác vụ được trao cho mình, công bố lời hoà giải. Thiên Chúa mời gọi tôi hoà giải với Ngài, tôi có mở lòng ra với Ngài? Tôi có sẵn sàng, thông qua thừa tác vụ của Giáo hội, thực hiện việc hoà giải với Thiên Chúa?

3. Dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” là câu trả lời thoả đáng cho những vấn nạn mà những người Pharisêu và các kinh sư đặt ra. Trước hết, tình thương của Thiên Chúa vượt lên trên những bất toàn tội lỗi của con người. Sau nữa, Thiên Chúa sẵn sàng chờ đợi con người trở về để tha thứ tất cả dù con người bất toàn, tội lỗi đến đâu. Cuối cùng, thật đáng trách cho những ai tự cho mình là công chính mà không nhận ra tình Chúa và hẹp hòi xét đoán anh em mình. Tôi có nhận ra tình thương mà Thiên Chúa vẫn luôn dành cho tôi? Tôi có nhận thấy mình là tội nhân cần trở về để xin Thiên Chúa thứ tha? Tôi có tự coi mình là tốt lành, công chính mà không cần đến tình thương của Chúa và hẹp hòi, khắt khe với anh em?

 

B. SUY NIỆM:

Tin mừng CN 4 Mùa Chay hôm nay cho thấy tình thương bao dung tha thứ của Thiên Chúa đối với các tội nhân (15,1-32). Thiên Chúa như một người Cha từ bi nhân hậu luôn “chạnh lòng thương” và sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho loài người như Thánh vịnh 135 đã ca tụng: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“. Tin mừng qua dụ ngôn Lòng Cha Bao Dung cho thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân thực lòng sám hối ăn năn:

1. Sám hối là quyết tâm trở về nhà cha (15,12-19):

Tội của đứa con thứ là tội bất hiếu khi đòi cha phải chia gia tài cho nó ngay khi ông đang còn sống. Sau đó nó đã bỏ nhà đi hoang và ăn chơi tiêu tán hết số tiền của cha. Đến khi lâm cảnh đói rách phải đi làm thuê làm mướn và bị người chủ là dân ngoại khinh dể và đối xử tệ hơn một con heo. Chính sự cùng khổ đã khiến nó hồi tâm và quyết tâm trỗi dậy quay về xin lỗi cha, với ước mong được cha đối xử chỉ như với một người làm công thôi. Câu“Đứng lên, đi về cùng cha” cho thấy thái độ dứt khoát với quá khứ tội lỗi để về với cha.

 

2. Lòng cha bao dung tha thứ vô điều kiện (15,20-24):

Về phần người cha, sau khi đứa con thứ ra đi, ông không ngừng buồn sầu nhớ thương, ngày ngày ngóng nhìn ra cổng chờ mong nó mau quay về. Khi thấy bóng con từ xa, ông đã nhận ra nó và “chạnh lòng thương”: Ông không trách mắng hay trừng phạt con, mà chạy tới ôm chầm lấy cổ nó và hôn lấy hôn để, rồi mau mắn trả lại địa vị làm con cho nó, khi truyền cho đầy tớ thay áo mới, đeo nhẫn vào ngón tay, xỏ giày vào chân và mở tiệc mời bạn bè hàng xóm đến ăn mừng, với lý do: “Tưởng nó đã chết mà nay sống lại, tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con hoang đàng, nói lên tình thương bao dung nhân hậu của cha. Qua thái độ của người cha chúng ta thấy: Trừng phạt tội nhân giống như dội một thùng nước lên que củi cháy sắp tàn khiến ngọn lửa tin yêu bị tắt ngúm. Còn tha thứ giống như thổi hơi vào tàn lửa tin yêu sắp tắt, khiến ngọn lửa ấy lại bùng cháy lên.

 

3. Phải tránh thái độ hẹp hòi ganh tỵ của anh con cả (15,25-32):

Người anh cả từ ngoài đồng trở về gần đến nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về và đã được cha, không những tha tội mà còn mở tiệc ăn mừng. Anh ta tỏ thái độ tức giận với cha bằng cách không thèm bước vào trong nhà. Khi gặp cha, anh đã chỉ trích lối hành xử của cha mà anh cho là bất công với anh (15,29). Thái độ giận dỗi của anh khiến cha phải năn nỉ và cố giải thích để anh cảm thông với lối hành xử yêu thương của cha: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31). Dụ ngôn kết thúc bằng lời cha khuyên con hãy đối xử bao dung: “Vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.

Câu chuyện dụ ngôn cho thấy sự khác biệt đối xử với đứa em giữa hai trái tim của người cha và của anh con cả:

- Con tim của con cả thì ích kỷ trái với con tim quảng đại của người cha.

- Con tim của con cả thì hẹp hòi trái với con tim rộng mở của người cha.

- Con tim của con cả thì lạnh lùng trái với con tim nồng ấm của người cha.

- Con tim của con cả thì ganh ghét trái với con tim yêu thương của người cha.

- Con tim của con cả thì cố chấp trái với con tim nhân hậu của người cha.

- Con tim của con cả đòi báo oán trái với con tim tha vô điều kiện của người cha.

 

4. Ta phải làm gì để đáp lại lòng thương xót của Thiên Chúa?

Dụ ngôn người cha bao dung và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân từ giàu lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chúa đã yêu thương chúng ta với tình yêu bao la như tình yêu của một người cha từ bi nhân hậu, sẵn sàng tha thứ tội lỗi của chúng ta là con cái Ngài: Ngài tha thứ vô điều kiện và tha luôn mãi!

Chúa phán: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng hóa nên trắng như tuyết. Có thắm tựa vải điều, cũng nên trắng như bông” (Is 1,18): Dù tội của chúng ta có nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn sâu nặng hơn gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng sám hối và quyết tâm quay về với Ngài.

Thiên Chúa tôn trọng sự tự do ra đi và chờ đợi sự tự giác trở về của chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm gì để đáp lại tình thương bao dung của Thiên Chúa là Cha? Phải cấp thời sám hối ăn năn và quay về làm hòa với Cha qua phép giải tội; Hãy đáp lại lòng thương xót của Cha bằng việc sẵn sàng thương xót tha thứ cho những anh em đã xúc phạm đến mình; Quan tâm giúp người thân trong gia đình và bạn bè còn đang sống trong tội lỗi, giúp họ mau hồi tâm sám hối trở về hầu nhận được hồng ân tha thứ của Thiên Chúa.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Thiên Chúa là Cha Yêu Thương, thật đáng tiếc khi có những người cha trong gia đình và cha trong cộng đoàn... chưa thể hiện được tình thương bao dung của Cha, nên đã làm cho tội nhân e sợ không dám quay về giao hoà với Thiên Chúa Cha. Xin Cha cho các người cha trong gia đình và cha trong cộng đoàn biết yêu thương con cái giống như người cha đầy lòng từ bi nhân hậu trong Tin Mừng hôm nay. Nhờ đó các tội nhân sẽ cảm nghiệm được lòng bao dung của Cha và tự giác quay về giao hòa với Cha trong Mùa Chay thánh này. Amen.

 

GOSPEL (Lk 15:1-3,11-32):

Tax collectors and sinners were all drawing near to listen to Jesus,
but the Pharisees and scribes began to complain, saying,
“This man welcomes sinners and eats with them.”
So to them Jesus addressed this parable:
A man had two sons, and the younger son said to his father,
“Father give me the share of your estate that should come to me.”
So the father divided the property between them.
After a few days, the younger son collected all his belongings
and set off to a distant country
where he squandered his inheritance on a life of dissipation.
When he had freely spent everything,
a severe famine struck that country,
and he found himself in dire need.
So he hired himself out to one of the local citizens
who sent him to his farm to tend the swine.
And he longed to eat his fill of the pods on which the swine fed,
but nobody gave him any.
Coming to his senses he thought,
How many of my father’s hired workers
have more than enough food to eat,
but here am I, dying from hunger.
I shall get up and go to my father and I shall say to him,
“Father, I have sinned against heaven and against you.
I no longer deserve to be called your son;
treat me as you would treat one of your hired workers.”
So he got up and went back to his father.
While he was still a long way off,
his father caught sight of him, and was filled with compassion.
He ran to his son, embraced him and kissed him.
His son said to him,
“Father, I have sinned against heaven and against you;
I no longer deserve to be called your son.”
But his father ordered his servants,
“Quickly bring the finest robe and put it on him;
put a ring on his finger and sandals on his feet.
Take the fattened calf and slaughter it.
Then let us celebrate with a feast,
because this son of mine was dead, and has come to life again;
he was lost, and has been found.”
Then the celebration began.
Now the older son had been out in the field
and, on his way back, as he neared the house,
he heard the sound of music and dancing.
He called one of the servants and asked what this might mean.
The servant said to him,
“Your brother has returned
and your father has slaughtered the fattened calf
because he has him back safe and sound.”
He became angry,
and when he refused to enter the house,
his father came out and pleaded with him.
He said to his father in reply,
“Look, all these years I served you
and not once did I disobey your orders;
yet you never gave me even a young goat to feast on with my friends.
But when your son returns
who swallowed up your property with prostitutes,
for him you slaughter the fattened calf.”
He said to him,
“My son, you are here with me always;
everything I have is yours.
But now we must celebrate and rejoice,
because your brother was dead and has come to life again;
he was lost and has been found.”

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

25/3: Lễ Truyền Tin - Năm C -

TIN MỪNGLc 1, 26-38.

“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.”

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

Đó là Lời Chúa.

 

I. SUY NIỆM:

Khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, Thiên thần truyền tin cho Đức Maria, chúng ta chiêm ngắm hình ảnh người nữ tỳ của Thiên Chúa nơiMẹ và xin cho được “Ở khiêm nhường”. Nhưng, sự khiêm nhường nơi Đức Maria đã được Kinh thánh diễn bày như thế nào?

1. Maria, người được Thiên Chúa tuyển chọn:

Tin mừng Luca thuật lại biến cố truyền tin mà hôm nay Giáo hội mừng kính. Thần sứ Gabriel đến gặp Đức Maria và trao lời cầu ngỏ. Đức Maria chỉ là một cô gái quê, cư dân thành Nazareth, không học thức cao sang, không danh giá quyền quý và chẳng có một nét ưu việt nào dưới con mắt người  đời. Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ được tuyển chọn để trở nênThân mẫu Đấng Cứu Thế. Điều Thiên Chúa muốn luôn khác xa với sự toan tính của con người. Các ngôn sứ thời cựu ước đã từng loan báo về việc Đấng Messia sẽ được sinh ra do một trinh nữ.Bài đọc 1 trong phụng vụ hôm nay nhắc lại cho chúng ta lời tiên báo ấy qua miệng ngôn sứ Isaia. Như vậy, Đức Maria đã được tuyển chọn không phải do tình cờ, nhưng kế hoạch ấy đã có trong chương trình của Thiên Chúa ngay từ đời đời. Mẹ được chọn không phải vì Mẹ đã đắc thủ cho mình những nhân đức trổi trang hơn hẳn các phụ nữ khác, hay do một yếu tố lịch sử nào đó tác động từ bên ngoài. Thiên Chúa đã chọn Mẹ, chỉ vì Chúa muốn như vậy, thế thôi. Ơn gọi luôn là một mầu nhiệm rất khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc suy lý của con người. Chúa đã chọn Mẹ hoàn toàn do ý định của Ngài, và như một hệ quả tất yếu, Chúa cũngphú mặc cho mẹ những phẩm tính cao trọng, tương xứng với thiên chức “Mẹ Thiên Chúa” hay “Mẹ Đấng Cứu thế”. Tâm hồn Mẹ được gìn giữkhông bị lây nhiễm bất cứ ô nhơ nào, ngay cả tội nguyên tổ. Cung lòng của Mẹ đã trở nên như ngôi đền thờ tuyệt mỹ để Ngôi Hai Thiên Chúa đến ẩn ngự.

 

2. Sự đáp trả tự do:

Trước lời cầu ngỏ của thần sứ, Mẹ đã thưa: “Xin vâng – Fiat”. “Xin hãy thực hiện nơi tôi những điều Chúa muốn”. Mẹ hoàn toàn tự do để lựa chọn giữa việc chấp thuận hay chối từ nhưng sự từ chối đã không xảy ra. Lời thưa xin vâng của mẹ có một ý nghĩa sâu xa mà Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn vào đó như một quy chuẩn căn bản để thực hiện sự khiêm tốn nội tâm. Khiêm nhường ở đây không phảichỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản như trong xã hội hiện nay người ta vẫn hay đề cao. Nền tảng của sự khiêm tốn nơi mẹ chính là sự tự hư vô hóa chính mình để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm ngự. Mẹ thuộc trọn về Chúa, không còn giữ lại chút gì cho mình và đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa điều hướng. Cha Tennyson, một nhà tu đức đã nói: “Khiêm nhường là căn rễ của mọi nhân đức, là cửa ngõ đưa dẫn đến sự hoàn thiện”. Thánh Phêrô trong thư thứ nhất của Ngài cũng đã dạy chúng ta : “Anh em hãy trang điểm mình bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho ai sống khiêm nhường” (1P5,5).

Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng, Thiên Chúa đã an bài và quyết định sẵn, nên tình thế không thể đổi thay. Qủa thật, từ đời đời Thiên Chúa đã tiên liệu, nhưng nơi Mẹ, sự đáp trả vẫn được thực hiện trong tự do hoàn toàn. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự chọn lựatự do nơi mỗi người chúng ta. Thánh Augustinô đã từng cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng để cứu rỗi con, Chúa cần có con cộng tác” (Trích trong sách “Confessio”). Mẹ đã hoàn toàn tự nguyện cộng tác vào trong chương trình của Thiên Chúa để kế hoạch cứu chuộcđược thực hiện. Vì thế, lời đáp trả của Mẹ có một giá trị tuyệt đối, vì đã khai mở chân trờiơn cứu độ, khi Mẹ bắt đầu cưu mang Đấng Messia trong cung lòng của mình. Đây là điểm nhấn của sự khiêm tốn nơi Đức Maria để mỗi khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhấtmùa vui, chúng ta đi sâu vào ý nghĩa của mầu nhiệm này.

 

3. Thầy dạy đức tin:

Bà Elizabeth đã nói về Mẹ: “Phúc cho bà là người đã tin” (Lc 1,45). Mẹ đã tin như lời sứ thần nói, là không có gì mà Thiên Chúa không thể làm được (Lc1, 37). Khi Thần sứ cầu ngỏ,Đức Maria đã ngơ ngác hỏi lại với lý luận rất đơn sơ: “Việc đó xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng”. Mẹ đặt câu hỏi vì Mẹ không phải là một ‘Siêu Thiên Chúa’,nhưng Mẹ cũng chỉ là một thụ tạo giống chúng ta. Tuy nhiên, Mẹ là thụ tạo toàn hảo vì đã đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa.

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 đã gọi Giáo hội là Mẹ và là Thầy (xem Tông thư Mater et Magistra). Những gì nói về Giáo hội cũng ám thị về Đức Maria. Mẹ đã trở nên Mẹ của Ngôi Hai và cũng là Thầy dạy đức tin cho chúng ta khi mẹ đón nhận Chúa Giêsu được tượng thai trong cung lòng mình. Lời thưa xin vâng trong biến cố truyền tin là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin, và cuộc hành trình này đạt đến đỉnh điểm khi Mẹ đứng dưới chân Thập giá, hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu trong hy tế cứu độ. Từ khuôn mẫu nội tâm này, mẹ đã trở nên Thầy dạy đức tin cho tất cả mọi tín hữu.

 

4. Học nơi Mẹ để sống hoàn thiện ơn gọi:

Sống sung mãn ơn gọi của mình là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta đến sự hoàn thiện. Phát nguồn từ Thiên Chúa, chúng ta được tạo thành và đi vào hiện hữu. Đồng thời, cũng chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa là cùng đích tối hậu mà chúng ta phải vươn đạt tới. Để sống mầu nhiệm ơn gọi, trước hết chúng ta cần phải nhận ra tiếng Chúa đang mời gọi, tức là phải khám phá ra ước mơ của Thiên Chúa nơi mình. Ngài muốn tôi là ai, chứ không phải muốn tôi làm gì. Chúa đã muốn Đức Maria trở nên Mẹ Đấng Cứu thế, còn phương cách thực hiện như thế nào, Chúa sẽ sắp xếp, chứ không phải do Mẹ quyết định. Nơi chúng ta cũng vậy. Muốn khám phá và đi vào lộ trình ơn gọi, không có mẫu gương nào hoàn hảo cho bằng chính Đức Maria để chúng ta quy chiếu vào. Mẹ đã để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình và Mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa. Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thơ Do Thái cũng gợi lại hình ảnh Đức Giêsu khi vào trần gian: “Này con đây, này con đến để thi hành thánh ý của Cha”. Đức Giêsu đã khiêm tốn vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá (Phil 2, 8). Đó cũng là sự khiêm nhường mà Đức Maria đã sao chép lại để trở nên gương mẫu cho chúng ta.

Thế gian như một quán trọ, và chúng ta là những lữ khách. Đường đời muôn nẻo mắc giăng với biết bao cạm bẫy. Chỉ khi nào chúng ta biết trải lòng mình ra, khiêm tốn tìm kiếm và thực hiện những gì Thiên Chúa muốn, chúng ta mới đi đúng đường và sống hoàn thiện ơn gọi của mình. Đứng  trước mọi biến cố hay mọi chọn lựa, chúng ta hãy học lấy tư thế nội tâm giống như Mẹ để luôn thưa lên: “Tôi chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Chúa muốn”.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giêsu, con thờ lạy Chúa là Con của Chúa Cha, Chúa đã nhập thể, đã trở thành người trong lòng Đức Mẹ đồng trinh. Với tâm hồn thánh thiện đầy ân sủng và thân xác tinh tuyền, Mẹ đã được Chúa chọn làm cung thánh để từ đó Chúa đi vào lịch sử loài người. Mẹ đã cưu mang Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Chúa trong thân xác. Tâm hồn Mẹ tràn đầy Chúa nên thân xác Mẹ cũng được Chúa cư ngụ, để rồi Mẹ ban tặng Chúa cho chúng con. Mẹ đã khiêm tốn ưng thuận để Chúa đi vào cuộc đời Mẹ và làm chủ cuộc đời Mẹ, nhờ vậy Chúa đã đi qua cuộc đời Mẹ để đến với chúng con.

Lạy Mẹ, chúng con được gọi Mẹ bằng chính âm thanh của Chúa Giêsu đã từng gọi trong suốt cuộc đời của Ngài. Mẹ được Chúa Giêsu gọi bằng mẹ không những vì đã sinh ra Ngài mà còn bởi vì đã sống vâng phục như chính Ngài. Xin Mẹ hãy phù giúp chúng con biết nhìn ngắm Mẹ và nhờ đó mỗi ngày một trở nên giống Con Mẹ hơn. Amen.

 

GOSPEL (Lk 1:26-38):

The angel Gabriel was sent from God
to a town of Galilee called Nazareth,
to a virgin betrothed to a man named Joseph,
of the house of David,
and the virgin’s name was Mary.
And coming to her, he said,
“Hail, full of grace! The Lord is with you.”
But she was greatly troubled at what was said
and pondered what sort of greeting this might be.
Then the angel said to her,
“Do not be afraid, Mary,
for you have found favor with God.
Behold, you will conceive in your womb and bear a son,
and you shall name him Jesus.
He will be great and will be called Son of the Most High,
and the Lord God will give him the throne of David his father,
and he will rule over the house of Jacob forever,
and of his Kingdom there will be no end.”
But Mary said to the angel,
“How can this be,
since I have no relations with a man?”
And the angel said to her in reply,
“The Holy Spirit will come upon you,
and the power of the Most High will overshadow you.
Therefore the child to be born
will be called holy, the Son of God.
And behold, Elizabeth, your relative,
has also conceived a son in her old age,
and this is the sixth month for her who was called barren;
for nothing will be impossible for God.”
Mary said, “Behold, I am the handmaid of the Lord.
May it be done to me according to your word.”
Then the angel departed from her.

The Gospel of the Lord

 

TGM. Giuse Nguyễn Năng

Lm. GB Trần Văn Hào

 

Chúa Nhật III Mùa Chay - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 13,1-9. 

“Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giê-su đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: “Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”. Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Bài Tin mừng hôm nay gồm hai ý chính như sau:

- Nếu không cấp thời sám hối thì sẽ phải chết: Khi ấy có một số người Ga-li-lê đã bị quân của Tổng Trấn Phi-la-tô giết chết khi đang dâng lễ trong Đền thờ, và mười tám người khác ở Giê-ru-sa-lem đã bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Nhiều người cho rằng những kẻ đó là người xấu nên đã bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giê-su lại quả quyết: Không phải như vậy! Nhưng nếu người ta không cấp thời ăn năn sám hối thì cũng đều bị chết như thế!

- Sám hối tích cực đòi phải phát sinh hoa trái: Tội của cây vả trong bài dụ ngôn là hình ảnh của dân Ít-ra-en không phải do đã sinh trái chua độc hại, nhưng là tình trạng già cỗi không sinh ra hoa trái. Sở dĩ cây vả chưa bị chặt là nhờ người làm vườn là đã xin chủ vườn khoan dung gia hạn thêm cho cây thời gian một năm. Nếu năm sau vẫn không ra trái thì bấy giờ cây sẽ bị chặt đi. Cũng vậy, mỗi chúng ta nếu không muốn bị tiêu diệt thì ngay từ bây giờ phải sám hối tích cực bằng việc thực thi việc bác ái chia sẻ phục vụ tha nhân.

 

A. GỢI Ý:

1. Qua hình ảnh bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi, Thiên Chúa mặc khải cho ông Môsê biết Người là Đấng Chí Thánh, Hằng Hữu, Hằng Sống và Siêu Việt trên mọi loài thụ tạo. Đồng thời, Người cũng là Đấng “nghe”, “thấy” và “biết” những nỗi vất vả, khổ cực của dân Israel trong cảnh lưu đày và nhờ trung gian ông Môsê để giải thoát họ. Thiên Chúa không chỉ là Đấng rất thánh, tách biệt khỏi những gì là phàm tục, tội lỗi của con người, nhưng còn là một Thiên Chúa xót thương và hằng quan tâm, lắng nghe những nỗi thống khổ của nhân loại. Có khi Thiên Chúa ở thật gần con người mà con người chẳng hay biết (x. St 28,16).

2. Thánh Phaolô nhắc các tín hữu Côrintô về những ân huệ lớn lao mà họ đang được thụ hưởng trong Đức Kitô: đó là phép Thánh Tẩy ban ơn tha tội nhờ Đức Kitô và lương thực thiêng liêng là chính Thánh Thể của Người. Cha ông họ xưa kia đã được Thiên Chúa cho vượt qua biển đỏ an toàn và dưỡng nuôi trong sa mạc, nhưng vẫn không tin Người nên đã bị hư vong. Nếu các tín hữu Côrintô không khiêm tốn đón nhận ân huệ thiêng liêng cao quý mà họ được Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu, thì họ cũng có nguy cơ bị hư vong như vậy. Thiên Chúa vẫn tiếp tục đổ tràn ân sủng của Người, nhờ Đức Giêsu Kitô, cho những ai tin cậy nơi Người.

3. Đối với Chúa Giêsu, những biến cố đau thương xảy đến cho người khác không phải là cách Thiên Chúa lên án tội lỗi của họ, nhưng là cơ hội để mỗi người sám hối về những lỗi lầm của mình. Thiên Chúa không muốn bất kỳ ai phải hư vong trong tội lỗi của họ, nhưng kiên nhẫn chờ đợi để mỗi người biết sám hối và thay đổi đời sống để sinh hoa trái xứng với lòng sám hối của mình. Mỗi phút giây trên đời đều là cơ hội quý giá để con người tạ lỗi trước mặt Thiên Chúa và làm những việc lành phúc đức đối với tha nhân.

 

B. SUY NIỆM:

1. Phải cấp thời sám hối:

- Nội dung Tin Mừng hôm nay: Khi nghe một kẻ gian ác gặp nạn, chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo!”. “Gieo gió thì phải gặt bão!”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người đồng thời với Đức Giê-su cũng đồng quan điểm như thế khi họ kể cho Người nghe câu chuyện mới xảy ra về mấy người thuộc xứ Ga-li-lê đã bị quân của tổng trấn Phi-la-tô giết chết trong Đền Thờ, làm cho máu của họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật họ vừa sát tế. Và chuyện 18 người mới bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Theo những người này thì do những người đó đã sống bất nhân thất đức nên mới bị chết thảm như vậy. Đức Giê-su đã sửa sai quan niệm đó khi nói rằng: Không phải chỉ mấy người đó mới bị tiêu diệt, mà đây là lời cảnh báo chung cho mọi người: Nếu người ta không chịu hồi tâm sám hối tội lỗi thì cũng sẽ bị tiêu diệt như vậy. Rồi Đức Giê-su đã nêu ra dụ ngôn về một cây vả được trồng trong vườn nho, đã bị chủ vườn than phiền vì đã ba năm không sinh ra trái, dù luôn được chăm sóc cẩn thận. Con số ba năm tương ứng với thời gian ba năm Đức Giê-su đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho dân Ít-ra-en. Lẽ ra, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống những con người vô tín và ương bướng kia rồi, giống như lời cảnh báo của Gio-an Tẩy Giả: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). Tuy nhiên, Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi thương xót, đã nghe lời cầu bầu của người làm vườn là Đức Giê-su, nên bằng lòng gia hạn cho họ thêm thời gian một năm để sinh hoa trái. Nếu năm tới vẫn không chịu sinh trái tốt, thì họ sẽ bị tiêu diệt giống như cây vả bị chặt  đi và quăng vào lò lửa.

- Hãy sám hối để khỏi bị tiêu diệt: Có lẽ chúng ta hôm nay cũng giống như cây vả trong bài Tin Mừng: Chúng ta thường mải mê lo lắng tìm kiếm cơm áo gạo tiền rồi sau đó lại tìm cách hưởng thụ… mà lơ là với việc chu toàn bổn phận là sống tình mến Chúa yêu người. Nhiều tín hữu đã theo đạo lâu năm mà vẫn sống ích kỷ tự mãn gian tham… không tốt hơn mà còn xấu hơn nhiều người lương. Họ đã không phát sinh hoa trái là ăn ở công minh chính trực. Vậy mỗi người chúng ta cần ăn năn sám hối như thế nào trong Mùa Chay này để khỏi bị tiêu diệt.

 

2. Phải sám hối thế nào theo thánh ý Chúa?

- Phải tín thác vào tình thương bao dung của Chúa: Giống như vua Đa-vít khi xưa: Sau khi phạm tội giết tướng U-ri-gia để đoạt vợ ông ta là nàng Bát Sê-va xinh đẹp, Đa-vít đã bị ngôn sứ Na-than vạch tội và ông đã thành tâm sám hối, sẵn sàng chịu đau khổ để đền tội. Về sau ông đã sáng tác ra nhiều bài thơ như Thánh Vịnh 50, để diễn tả sự thành tâm sám hối của ông và nhờ đó ông đã nhận được ơn tha thứ của Đức Chúa (x. II Sm 11,1 tt).

- Phải quảng đại tha lỗi nhỏ bé cho kẻ khác để xứng đáng được Chúa thứ tha tội lỗi lớn lao cho mình: Ông Vua chủ nợ đã mắng kẻ đã được tha số nợ lớn nhưng lại không chịu tha số nợ nhỏ bé của người khác như sau: “Hỡi tên đầy tớ bất lương! Ta đã tha bổng cho ngươi tất cả nợ nần chỉ vì ngươi đã nài xin ta. Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” (Mt 18,32-33). Mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy xin Chúa Cha tha tội nợ cho mình theo lời kinh: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

 

3. Hãy ăn năn sám hối:

- Sám hối là thay đổi cách đánh giá về bản thân: Cần nghiêm khắc với bản thân và khoan dung với tha nhân. Hãy đấm ngực mình chứ không đấm ngực người khác như lời trong kinh cáo mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng…”.

- Sống công bình bác ái để chứng tỏ sám hối thực sự: Sự sám hối trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn các tội đã phạm mà còn phải sống theo lời Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng thống hối”. Hoa trái của sự thánh thiện là thực thi công bằng bác ái, yêu thương tha thứ và khiêm nhường phục vụ. Cần sám hối bằng việc cụ thể như: Nở nụ cười thân ái với tha nhân, chia sẻ cơm bánh và khiêm nhường phục vụ, xóa bỏ điều bất công, quảng đại tha thứ lỗi lầm và làm điều tốt cho kẻ đang thù ghét mình (x. Lc 6,31)…

 

4. Sám hối là quyết tâm trở nên người tốt:

- Quyết tâm đổi mới đời sống: Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm giúp chúng ta hồi tâm sám hối để đi xưng tội là xong… nhưng còn giúp chúng ta quyết tâm nên người tốt bằng việc tập các nhân đức đối lập với thói hư của mình, như kinh “Cải Tội bảy mối có bảy đức” đã dạy…

- Quyết tâm hành động tích cực và cụ thể: Câu chuyện sau đây cho thấy thế nào là sám hối thực sự:

Một hôm, khi đi học về đến nhà, bé Tâm chạy ngay vào bếp rồi nũng nịu nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con đói bụng quá!”. Mẹ ôn tồn nói với con: “Con hãy chờ mẹ một lát là sẽ có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm về hơi muộn nên bị trễ giờ nấu cơm”.  Nhưng bé Tâm đã tỏ thái độ vùng vằng khó chịu với mẹ, rồi em bỏ lên lầu chơi, chờ đến khi mẹ gọi mới xuống nhà ăn cơm. Sau khi ăn xong, mẹ mới ôn tồn nói với bé Tâm như sau: “Con năm nay đã lớn và học lên lớp năm rồi. Con phải có trách nhiệm phụ giúp mẹ lo công việc trong nhà mới phải. Khi đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong lẽ ra con phải xuống bếp phụ mẹ nhặt rau, lau chùi chén bát và dọn đồ ăn lên bàn chứ. Con không được tỏ thái độ giận dỗi mẹ như chiều nay nghe không?” Bé Tâm đã nhận ra thái độ không đúng của mình làm mẹ buồn. Em hối hận thưa: “Con đã biết lỗi rồi. Từ nay con hứa sẽ quan tâm giúp mẹ và sẽ không làm gì khiến mẹ buồn lòng nữa”. Thế là mẹ liền ôm bé Tâm vào lòng và nói: “Con ngoan của mẹ. Mẹ cảm thấy rất vui vì con đã biết nhận lỗi và hy vọng từ nay con sẽ trở thành đứa con luôn ngoan ngoãn hiếu thảo của mẹ nhé”.

Cũng vậy, trong Mùa Chay này, để xứng đáng được Chúa tha thứ tội lỗi, chúng ta hãy hồi tâm sám hối các tội đã phạm, hãy quan tâm khám phá ra thói hư của mình và quyết tâm chừa cải bằng cách tập làm việc tốt đối nghịch với thói hư. Mỗi tối nên dành ít phút xét mình theo điều đã dốc quyết và xin Chúa giúp ta ngày một tốt hơn.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn trong cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải chịu đau khổ tai ương bệnh tật là để con ăn năn sám hối đền tội, hầu ngày một nên tốt. Xin cho con dù gặp những điều trái ý, biết nhẫn nại chịu đựng để đền tội con và giúp các tội nhân được sớm hồi tâm trở về với Chúa, như dụ ngôn đứa con hoang đàng quyết tâm quay về nhà cha để xin lỗi cha và sống hiếu thảo làm vui lòng cha. Amen.

 

GOSPEL (Lk 13:1-9):

Some people told Jesus about the Galileans
whose blood Pilate had mingled with the blood of their sacrifices.
Jesus said to them in reply,
“Do you think that because these Galileans suffered in this way
they were greater sinners than all other Galileans?
By no means!
But I tell you, if you do not repent,
you will all perish as they did!
Or those eighteen people who were killed
when the tower at Siloam fell on them
do you think they were more guilty
than everyone else who lived in Jerusalem?
By no means!
But I tell you, if you do not repent,
you will all perish as they did!”
And he told them this parable:
There once was a person who had a fig tree planted in his orchard,
and when he came in search of fruit on it but found none,
he said to the gardener,
“For three years now I have come in search of fruit on this fig tree
but have found none.
So cut it down.
Why should it exhaust the soil?”
He said to him in reply,
“Sir, leave it for this year also,
and I shall cultivate the ground around it and fertilize it;
it may bear fruit in the future.
If not you can cut it down.”

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

19/3: Lễ Trọng Thánh Giuse - Bạn Trăm Năm Đức Maria -

TIN MỪNG: Mt 1,16.18-21.24a. 

Ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Mát-thêu:

Ông Gia-cóp sinh ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô. Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Thánh Giuse vâng lời sứ thần để nhận Chúa Giêsu là con của mình, nhờ thế Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi vua Đa-vít. Thánh Giuse là người công chính vì Ngài luôn tôn trọng Thánh Ý Thiên Chúa và tôn trọng Đức Mẹ.

Kinh thánh đã xác nhận thánh Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Khi gọi Giuse là người công chính, và nhìn vào cuộc sống của Ngài, chúng ta có thể hiểu được nội dung của từ công chính ấy.

 

A. GỢI Ý:

1. Theo nghĩa thông thường: từ “công chính” có nghĩa là “công bình”, nghĩa là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi, công chính là không dám nhận những gì không phải là của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria đã mang thai.

Theo lời giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria bất trung. Nhưng theo các nhà chú giải mới thì thánh Giuse định bỏ trốn, vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm Cha Đấng Cứu Thế. Chức vị làm Cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.

2. Theo nghĩa đạo đức: trước sự kiện Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, mặc dù không hiểu và định tâm rút lui trong âm thầm, để thực hiện kế “đào vi thượng sách” khôn ngoan, nhưng một khi đã được mạc khải cho biết sứ mạng “Cha nuôi” của mình thì Giuse đã mau mắn rước mẹ con Đức Maria về nhà mình.

Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tinh tế, kính cẩn, nâng niu. Hãy nhìn cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu. Ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa báo thức dậy trốn sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.

3. Ngài là một gia trưởng: thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ coi sóc Đức Giêsu và Đức Maria, gìn giữ gia đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong mọi hoàn cảnh trong lúc thuận tiện cũng như trong hoàn cảnh khó khăn.Theo pháp lý, thánh Giuse là Bạn trăm năm của Đức Maria, Ngài là chồng thực sự, mặc dầu không ăn ở với nhau. Ngài cũng phải là Cha của Đức Giêsu mặc dù chỉ là cha nuôi. Cả ba vị đã làm thành một gia đình thực thụ. Người ta thường nói: “Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ), như vậy trong gia đình Nazareth thì đương nhiên thánh Giuse phải là gia trưởng, và Đức Maria và Đức Giêsu phải vâng lời Ngài với tư cách Ngài là gia trưởng.

Người cha là mái hiên che chắn cho gia đình trước bao giông tố của cuộc đời. Người cha chấp nhận những gian khổ cuộc đời để nuôi dưỡng gia đình.

4. Ngài là người cộng tác âm thầm trong công cuộc cứu thế, với vai trò thật mờ nhạt. Kinh Thánh chỉ nhắc đến Ngài với tư cách là một bác thợ mộc ở Nazareth và là cha của ông Giêsu, thế thôi, rồi Ngài rút vào bóng tối không ai biết đến nữa. Nhưng công dưỡng dục vào bảo vệ thánh gia, được thánh tiến sĩ Bênađô ghi nhận: “Thiên Chúa Cha chọn thánh Giuse không những để làm người an ủi Đức Maria khi gặp gian truân và để làm Cha nuôi Chúa Con mà còn để thánh nhân cộng tác vào công trình của Chúa Cứu Thế là công việc chung cả Ba Ngôi Thiên Chúa”.

5. Ngài là đầy tớ trung thành: nếu ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa và nỗ lực của bản thân để đáp trả lời mời gọi, thì qua bài Tin mừng hôm nay, chiêm ngưỡng thánh Giuse trong dáng dấp “người công chính” cũng cho thấy Thánh Giuse là tôi tớ trung tín một đời, sẵn sàng vâng nghe tiếng gọi và mau mắn thi hành, như một đầy tớ vô dụng, tất cả đều cậy nhờ vào Thiên Chúa (Lc 17,10), sẵn sàng bỏ ý riêng làm theo ý Chúa để cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.

6. Ngài có thần thế trước toà Chúa: ngày xưa vua Pharaon nói với dân chúng: “Ite ad Joseph”: hãy đến cùng Giuse, tiên báo Giuse ngày nay: không phải chỉ ban phát gạo thóc mà là muôn ơn. Thánh Giuse có thần thế trước mặt Chúa. Cảm nghiệm điều đó, thánh nữ Têrêsa Avila đã nói: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý, ngài giúp chúng ta trong mọi trường hợp”.

 

B. SUY NIỆM:

Trong Phúc Âm, Thánh Giuse được giới thiệu là “người công chính” gắn liền với đời sống âm thầm. Không một lời nào của ngài được ghi nhận. Nhưng giữa những biến cố bên cạnh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh Giuse lại xuất hiện trong một diện mạo khác, vừa năng động mau mắn vừa xác quyết tin yêu. Nếu đức tin là một sự lên đường liên tục thì thông qua những đáp ứng lên đường mau mắn của Giuse trong những lần được mộng báo, ta có thể gọi ngài là “con người của niềm tin”.

1. Lên đường ra khỏi ý riêng để tìm theo thánh ý:

Cũng như bao người ngoan đạo thời bấy giờ, thánh Giuse thể hiện niềm tin tôn giáo qua việc tuân hành lề luật được ban hành dưới thời Môsê. Luật là kim chỉ nam đời sống, luật cao trọng hơn cả bạc vàng, luật quý giá hơn những lời tinh hoa, luật nên như ánh sáng soi đường công chính. Sự công chính của một người được đánh giá xếp hạng tuỳ vào sự tuân giữ lề luật này. Luật lệ với những quy định rạch ròi, càng tuân thủ khít khao bao nhiêu, càng được đánh giá ở mức độ cao trên đàng công chính bấy nhiêu. Nhưng bước vào chương trình của Thiên Chúa, Giuse được mời gọi phải lên đường ra khỏi ý riêng vốn được luật lệ khuôn định để đến với thánh ý Chúa, đón nhận và tuân hành.

Giấc mộng báo thứ nhất đã nói lên tất cả. Nếu theo luật lệ, Giuse vốn là người công chính, chẳng những không được đón Maria đang mang thai lạ về nhà, mà còn phải nhân danh sự công chính để tố giác Maria trước cộng đồng nữa. Nhưng theo thánh ý thể hiện qua lời sứ thần trong mộng báo, Giuse đã đón nhận Maria trọn vẹn trong tình yêu, để trở nên công chính bằng cách ra khỏi lựa chọn theo tiêu chuẩn của thói quen luật lệ mà gắn bó với lời gọi đầy mạo hiểm của Thiên Chúa. Ý Chúa thật đáng ngại, làm đảo lộn tất cả khuôn sáo ngày trước để mở ra nẻo lối yêu thương. Giuse đã sẵn lòng từ bỏ sự công chính theo tiêu chuẩn của luật lệ để bước theo sự công chính theo chuẩn mực của tình yêu. Chính đây là việc lên đường đầu tiên của niềm tin.

 

2. Lên đường ra khỏi sự yên ả để lao đầu vào sóng gió:

Đón nhận Maria về chung sống, tưởng rằng từ nay đời có Chúa êm trôi êm trôi, Chúa dắt dìu đi không ngơi không ngơi, nào ngờ tình yêu tuyệt vời chưa kịp thấy, Giuse đã gặp đường đi đơn côi và vất vả chừng như gia tăng gấp bội. Nào là phải lên đường trở về nguyên quán Belem đăng ký hộ khẩu khi Maria đang ở những ngày cuối thai kỳ, nào là phải gạt lệ chịu để Chúa Giêsu được sinh ra trong hang đá nơi trú ẩn của bò lừa, và đỉnh cao là giấc mộng báo thứ hai: “Hãy đem trẻ Giêsu và mẹ Người trốn sang Ai Cập”. Quả là trách nhiệm một thân với đôi vai gánh gồng. Niềm tin là như thế đó, không phải là chọn lấy cuộc sống yên ả êm đềm, mà ngược lại luôn bị đẩy đưa ra giữa biển khơi sóng gió để chèo chống mà lớn lên trong lòng tin cậy mến.

Tin chính là một gặp gỡ cá vị với Thiên Chúa để sống gắn bó bền lòng bất kể những thử luyện để mà lớn lên, những khổ đau để mà minh chứng, những cùng cực để mà thêm tín thác cậy trông. Thánh Giuse đã trải qua những biến cố thăng trầm ấy để trở nên tượng đài của lòng tin kiên cường. “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà đi theo”. Chúa Giêsu đã ra tiêu chuẩn như vậy. Kitô hữu, thuộc về Chúa Kitô và cũng bước đi theo Người, theo gương thánh Giuse và trong tinh thần Mùa Chay giữa lòng Năm Đức Tin, ta cũng sẵn sàng đón nhận thập giá bổn phận của bậc sống để vác lấy hằng ngày qua việc to việc nhỏ, được nhiều người biết đến hay chỉ trong âm thầm, mà bước đi theo Chúa bền bỉ trong cuộc đời mình.

 

3. Lên đường ra khỏi vòng hạn hẹp để sống chan hoà:

Nếu giấc mộng thứ ba báo tin bạo chúa Hêrôđê băng hà là tin buồn cho người thuộc phe cánh ông thì lại là tin vui cho gia đình thánh: chấm dứt nỗi lo canh cánh bao ngày canh giữ và bảo toàn sinh mạng cho Đấng Cứu Thế, đồng thời cũng chấm dứt cảnh tha hương trốn chạy. Giấc mộng hồi hương tưởng xa biền biệt giờ đây đã đến. Quê hương vấn vương ngày nào giờ đây đã thân thương tỏ hiện. Nhưng trong chính cảm xúc rất đỗi tự nhiên ấy, thánh Giuse lại được thúc đẩy để không xuôi về Giuđêa miền nam mà ngược lên sinh sống tại Galilêa miền bắc để Chúa Giêsu sau này được người ta nhìn nhận như người Nazarét. Quả là tình tiết nhiệm mầu. Nếu Giuse trở lại miền nam co cụm bên ít gia đình quen biết kẻ mất người còn thì có lẽ mối quan hệ sẽ không tránh khỏi bị hạn chế, đàng này ngài đi xa hơn, mạo hiểm hơn, nhưng cũng đầy tính tiên liệu để trẻ Giêsu sau này lớn lên sẽ có môi trường rộng rãi hơn để thi thố ơn gọi đời mình. Đây không chỉ là việc tính toán mang mầu xã hội mà còn là thể hiện một sứ mạng tôn giáo. Niềm tin không dừng lại trong vòng tròn hạn hẹp địa lý tình thân sở thích, nhưng nhất thiết phải mở ra cho hết mọi người trong sự chan hoà lan toả.

Đành rằng tin là gặp gỡ gắn bó với Chúa, nhưng tin cũng lại là cánh cửa mở ra cho tình hiệp thông liên đới với mọi người đồng thời, cả về mặt Giáo Hội cũng như xã hội. Quả như một định luật dễ thương: ai càng gắn bó với Chúa, lại càng nhanh chóng được Chúa gửi đến với anh chị em chung quanh, để dấn thân lên đường phục vụ.

Tóm lại, chia sẻ về thánh Giuse như “con người của lòng tin” biết lên đường ra khỏi ý mình để tuân hành ý Chúa, ra khỏi sự yên ổn để dấn bước xông pha và ra khỏi vòng cục bộ để sống chan hoà, mong rằng đã trao đến cộng đoàn một chân dung khác của thánh Giuse, đầy nhiệt huyết, nhiều năng động và giầu tính Tin Mừng. Xin cho chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin gặp được nơi thánh Giuse hình mẫu sống động để vững bước theo Chúa giữa cuộc sống hôm nay, vốn đầy dẫy thử thách cám dỗ khó khăn của nếp sống cá nhân, gia đình, xóm đạo, giáo xứ, giáo phận. Nếu thánh Giuse đã vượt lên tất cả để khẳng định niềm tin, xin nhờ lời chuyển cầu của Ngài, cho mọi tín hữu hôm nay không chỉ bằng lòng tuyên xưng mà còn nỗ lực làm chứng cho đức tin nữa.

Mùa Chay cũng là mùa hồng ân, mùa cứu rỗi, mùa tìm về với tình thương của Thiên Chúa, xin cho gia đình giáo phận chúng ta theo gương thánh Giuse biết tìm hiểu và quyết tuân theo thánh ý, dẫu biết rằng sống theo thánh ý cũng chính là phải bước đi trên đường thánh giá, bởi lẽ ý Chúa thường ngược lại với ý riêng con người.

Chúc mừng những người mang bổn mạng Giuse và xin nhờ lời chuyển cầu của Ngài cho mọi người biết sống niềm tin mật thiết đầy đủ hơn và tươi tắn hạnh phúc hơn, đồng thời cũng biết chan hoà cưu mang những người khác, cách riêng những anh chị em cùng khốn chung quanh mình trong sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh. “Hôm nay ngày lễ quan thầy, Giuse thánh Cả tràn đầy ơn thiêng. Dâng câu hát, ngọt lời kinh, Khang an hạnh phúc, nguyện xin chúc mừng”.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Cha, con chúc tụng Cha vì Cha đã chọn cho Chúa Giêsu một người cha nuôi thánh thiện là thánh Giuse. Ngài thánh thiện vì ngài là người công chính sống đúng thân phận và vai trò của mình. Đối với Cha, ngài đã luôn tôn trọng Thánh ý nhiệm mầu và kế hoạch cứu độ. Dù hiểu hay không hiểu, ngài vẫn luôn sẵn sàng chờ đợi để thực hiện điều Cha muốn nơi ngài. Đối với Chúa Giêsu, ngài luôn tôn trọng và chu toàn trách nhiệm của người cha nuôi. Đối với Đức Mẹ, dù ngài không hiểu rõ điều đã xảy đến cho Đức Mẹ, nhưng ngài vẫn hết lòng tôn trọng và không muốn tố giác Đức Mẹ.

Lạy Cha, xin Cha giúp con noi gương thánh Giuse để sống cuộc đời công chính. Xin Cha cho con biết tôn trọng Cha để con thờ Cha cho phải đạo. Xin cho con biết tôn trọng mầu nhiệm Thánh Ý Cha để con tuân giữ và vâng phục, dù trí khôn hèn mọn của con chẳng thể hiểu thấu. Xin giúp con tôn trọng người khác, vì mỗi người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Cha mới có quyền đi vào. Con cũng muốn tôn trọng cả thiên nhiên, vì Cha muốn con phải làm chủ vạn vật theo kế hoạch của Cha. Trong đức tin, con nhận ra rằng cả một mầu nhiệm vĩ đại đang bao trùm cuộc sống con. Con chỉ biết chờ đợi Cha lên tiếng mời gọi và hướng dẫn, để con sống đúng thân phận và vai trò của con. Amen.

 

GOSPEL (Mt 1:16,18-21,24a):

Jacob was the father of Joseph, the husband of Mary.
Of her was born Jesus who is called the Christ.
Now this is how the birth of Jesus Christ came about.
When his mother Mary was betrothed to Joseph,
but before they lived together,
she was found with child through the Holy Spirit.
Joseph her husband, since he was a righteous man,
yet unwilling to expose her to shame,
decided to divorce her quietly.
Such was his intention when, behold,
the angel of the Lord appeared to him in a dream and said,
“Joseph, son of David,
do not be afraid to take Mary your wife into your home.
For it is through the Holy Spirit
that this child has been conceived in her.
She will bear a son and you are to name him Jesus,
because he will save his people from their sins.”
When Joseph awoke,
he did as the angel of the Lord had commanded him
and took his wife into his home.

The Gospel of the Lord

 

Sưu tầm.

 

Chúa Nhật II Mùa Chay - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 9,28b-36. 

Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo Thánh Luca:

Hôm ấy Đức Giê-su lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc Xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Ê-li-a, và một cái cho ông Mô-sê”. Ông không biết mình đang nói gì. Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh. Và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Cuộc hiển dung của Đức Giê-su xảy ra vào khoảng tám ngày sau khi Người tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp trải qua. Ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an được theo Đức Giê-su đi lên núi. Đã được chứng kiến Thầy Giê-su biểu lộ dung nhan Thần Tính và đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a về “cuộc Xuất hành” mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (c.31). Các ông cũng được nghe lời Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người”.

 

A. GỢI Ý:

1. Không phải được tuyển chọn, nhưng Abram được Chúa chọn gọi giữa muôn người theo ý định và tình thương nhưng không của Người. Tin tưởng vào Chúa, vào tình thương và lời hứa của Người, Abram trở thành khuôn mẫu của mọi người chúng ta về một niềm tin kiên vững và phó thác. Cũng như Abram, tôi có xác tín và nhận ra rằng tôi cũng chắc chắn được Thiên Chúa yêu thương chọn gọi và đặt để trong một kế hoạch yêu thương của Người?

2. Hành trình Mùa Chay hướng về tâm tình mừng lễ Vượt qua với cuộc vinh thắng của Đức Kitô. Lắng đọng trong tâm hồn và suy nghĩ về những giá trị mà tôi đang sống, tôi thấy những giá trị này có phản ánh thập giá Đức Kitô và Nước Trời không? Có điều gì tôi cần phải “xuất hành” và “vượt qua”?

3. Trước khi chịu khổ hình thập giá, Đức Giêsu đã tỏ lộ chân dung vinh quang của Người cho các môn đệ, để củng cố niềm tin của các ông và giúp các ông vượt qua những gian nan thử thách. Chắc chắn đây cũng là cách thức mà Chúa cũng thực hiện nơi mỗi người chúng ta. Vậy trong những hoàn cảnh khó khăn, thập giá của đời mình, tôi có nhận ra dung mạo vinh quang của Chúa, cuộc vinh thắng của Người, cũng như niềm hy vọng về đức tin của tôi?

 

B. SUY NIỆM:

1. Hai cuộc biến hình của Đức Giê-su trên hai quả núi:

Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã hiển dung trước mắt ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an trên núi cao (x. Lc 9,28b-29). Về sau cũng ba ông này sẽ được chứng kiến Đức Giê-su thay đổi hình dạng trong Vườn núi Cây Dầu vào đêm trước cuộc khổ nạn (x. Mc 14,33). Ở trên núi cao hôm nay, trước mặt ba môn đệ thân tín, Đức Giê-su đã hiển dung và được Chúa Cha xác nhận là Con yêu dấu và là người được tuyển chọn. Trong vườn núi Cây Dầu Đức Giê-su lại thay đổi hình dạng trở nên buồn sầu như Người đã nói với các môn đệ: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến chết được” (Mc 14,34).

2. Ý nghĩa hai cuộc biến hình của Đức Giê-su:

- Đức Giê-su hiển dung trên núi để cho thấy thân xác loài người chúng ta sau này cũng sẽ được biến đổi trở nên sáng láng, cho dù hiện tại thân xác ấy có mỏng dòn yếu đuối và dễ sa ngã phạm tội. Rồi khi chịu chết đau thương trên cây thập giá, toàn thân Đức Giê-su bị biến dạng với đầy nhứng vết thương do bị hành hạ trong cuộc thương khó. Nhưng sau khi phục sinh thân xác của Người lại biến đổi trở nên tốt đẹp đến nỗi Ma-ri-a Ma-đa-len-na đã không nhận ra Người vào sáng sớm ngày Phục Sinh (x.Ga 20,14-16), hoặc như hai môn đệ làng Em-mau đã không nhận ra Người khi cùng đi đường đàm đạo với Người (x. Lc 24,14-16).

- Đức Giê-su sau Phục Sinh và Đức Giê-su trước cuộc Tử Nạn vẫn là một nhưng mang hai khuôn mặt khác nhau. Điều này cho thấy: Thân xác con người ở trần gian và sau khi sống lại ngày Tận Thế tuy là một, nhưng vẫn có sự khác biệt nhờ sự biến đổi như thánh Phao-lô đã nói: “Đây tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên. Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi. Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (1 Cr 15,51-53).

3. Bài học từ câu chuyện Chúa biến hình:

Các cuộc biến đổi từ xấu nên tốt đều nhờ sự cầu nguyện và vâng nghe Lời Chúa:

- Nhờ sự cầu nguyện: Cũng như Đức Giê-su đã thay hình đổi dạng khi đang cầu nguyện, thì các tín hữu cũng chỉ được biến đổi nếu ý thức về tình trạng tội lỗi của mình và xin Chúa ban ơn trợ giúp như lời Đức Giê-su: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được!” (Ga 15,5).

- Nhờ sự vâng nghe Lời Chúa: Trong cuộc hiển dung, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Đức Giê-su là Người Con yêu dấu được tuyển chọn, và dạy các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Lời Chúa như thanh gươm sắc bén sẽ tỉa sạch các thói hư và biến các tín hữu chúng ta nên tạo vật mới của Thiên Chúa (x. Ga 15,2).

4. Chúng ta phải làm gì?

Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp gỡ Chúa để được ơn biến đổi nên tốt lành thánh thiện hơn.

- Cần tham dự tuần tĩnh tâm Mùa Chay để thêm lòng ăn năn sám hối tội lỗi và quyết tâm tu sửa thói hư bằng việc thực hành nhân đức đối lập như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” dạy…

- Cần năng dâng lời nguyện tắt lên Chúa như người thu thuế trong Đền thờ: “Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Như ông Si-mon Phê-rô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi.” (Lc 5,8) hay như người trộm lành trên thập giá: “Lạy ông Giê-su khi nào về Nước của Ngài, xin nhớ đến con cùng” (Lc 23,42).

- Mỗi ngày sẽ làm một việc hãm mình để đền tội như: nhịn uống một tách cà-phê, một ly rượu bia, nhịn hút một điếu thuốc lá; Nở nụ cười hoặc bắt chuyện trước với một người bạn đang giận mình; Cho một người bạn gặp khó khăn vay số tiền theo khả năng của mình; Đi thăm một người già neo đơn quen biết hay tại viện dưỡng lão để lắng nghe và động viên an ủi họ…

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin biến đổi con nên con người mới nhờ năng suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày. Xin biến đổi cái nhìn của con nên nhân từ bao dung sau mỗi lần con chiêm ngắm Chúa. Xin thanh tẩy môi miệng con tránh nói những lời xấu xa lỗi bác ái sau mỗi lần rước Chúa. Xin biến đổi đôi tai con sau mỗi lần con lắng nghe Lời Chúa dạy. Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời ánh sáng tin yêu mỗi lần con được gặp Chúa. Ước gì mọi người chung quanh nhìn thấy niềm vui của Chúa qua nụ cười rạng rỡ của con. Thấy sự ân cần cảm thông của Chúa qua lời ăn tiếng nói và cách ứng xử của con. Amen.

 

GOSPEL (Lk 9:28b-36):

Jesus took Peter, John, and James
and went up the mountain to pray.
While he was praying his face changed in appearance
and his clothing became dazzling white.
And behold, two men were conversing with him, Moses and Elijah,
who appeared in glory and spoke of his exodus
that he was going to accomplish in Jerusalem.
Peter and his companions had been overcome by sleep,
but becoming fully awake,
they saw his glory and the two men standing with him.
As they were about to part from him, Peter said to Jesus,
“Master, it is good that we are here;
let us make three tents,
one for you, one for Moses, and one for Elijah.”
But he did not know what he was saying.
While he was still speaking,
a cloud came and cast a shadow over them,
and they became frightened when they entered the cloud.
Then from the cloud came a voice that said,
“This is my chosen Son; listen to him.”
After the voice had spoken, Jesus was found alone.
They fell silent and did not at that time
tell anyone what they had seen.

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật I Mùa Chay - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 4,1-13. 

Đức Giê-su được đầy Thánh Thần và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ.

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!”. Nhưng Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”. Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông. Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn”. Lại còn chép rằng: “Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời rằng: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Tin mừng thuật lại việc Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày và bị ma quỷ cám dỗ. Người đã dùng Lời Thánh Kinh để ba lần chiến thắng ma quỷ cám dỗ về thú vui nhục dục, về quyền lợi vật chất và về danh vọng chức quyền.

 

A. GỢI Ý:

1. “Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi”.Dân Do thái đã cảm nghiệm được sự can thiệp đầy lòng thương xót của Thiên Chúa trong đời sống của họ và họ đáp trả bằng việc dâng của lễ đầu mùa lên Người như tỏ lòng biết ơn. Trong cuộc sống tôi nhận được nhiều hồng ân của Thiên Chúa, nhờ vào tình yêu và của Người. Vậy, tôi đã quảng đại đáp trả lòng thương xót của Thiên Chúa chưa? Tôi đã biết sống “thương xót như Chúa Cha”?  Đâu là những hành động cụ thể mà tôi thể hiện lòng tri ân Thiên Chúa trong cuộc sống?

2. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ”. Tôi có thực sự sống những điều mà tôi tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô? Tôi có thực sự sống tín thác vào Người khi vui, lúc buồn, cũng như khi gặp nguy khó? Tôi có cảm nghiệm Đức Giêsu như là chỗ nương tựa cho đời tôi?

3. Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Tôi có đặt Thiên Chúa ở vị trí quan trọng và tối thượng trong cuộc sống của tôi? Hay tôi còn có nhiều vị thần khác đang chi phối cuộc sống tôi? Tôi có thi hành thánh ý Thiên Chúa hay chỉ dựa vào Thiên Chúa để thực hiện những mục tiêu trần thế của tôi?

4. Ăn chay, nghĩa là học cách thay đổi thái độ của chúng ta đối với người khác và tất cả mọi thụ tạo, tránh xa cám dỗ “nuốt chửng” tất cả mọi thứ hầu thỏa mãn thói tham lam của chúng ta, và sẵn sàng chịu hy sinh vì tình yêu, là điều có thể lấp đầy sự trống rỗng nơi tâm hồn mỗi người chúng ta. Cầu nguyện dạy chúng ta từ bỏ việc tôn thờ ngẫu tượng cũng như sự kiêu căng của bản ngã, và đồng thời thừa nhận nhu cầu của chúng ta đối với Thiên Chúa và Lòng thương xót của Ngài. Bố thí là việc mà nhờ đó chúng ta thoát khỏi sự điên rồ của việc chỉ lo tích trữ tất cả mọi thứ cho bản thân với niềm tin viển vông rằng chúng ta có thể đảm bảo một tương lai vốn chẳng hề thuộc về chúng ta.” (ĐGH Phanxicô, Sứ Điệp Mùa Chay 2019, số 2). Trong Mùa Chay Thánh năm nay, tôi thực hành ba việc đạo đức này theo thói quen hay theo tinh thần của Hội Thánh?

 

B. SUY NIỆM:

1. Loài người thường bị cám dỗ ra sao?

Dân Do thái ngày xưa đã nhiều lần bị cám dỗ trong thời gian lưu lạc 40 năm trong hoang địa. Họ muốn được “ngồi bên nồi thịt và được ăn bánh thỏa thuê” (x. Xh 16,2tt). Các môn đệ Đức Giê-su cũng có lần bị cám dỗ muốn có địa vị lớn hơn anh em (x. Mc 9,34), được ngồi bên tả bên hữu Thầy Giê-su (x. Mc 10,37). Ngay chính Đức Giê-su cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ. Dù là Thiên Chúa nhưng cũng là con người giống như chúng ta, nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách như chúng ta” (Dt 4,15).

 

2. Đức Giê-su có bị ma quỷ cám dỗ không?

Tin Mừng Lu-ca thuật lại câu chuyện trước khi ra giảng đạo Đức Giê-su đã ăn chay cầu nguyện 40 ngày trong sa mạc. Sau thời gian đó Người cảm thấy đói và ma quỉ đã đến cám dỗ Người về ba phương diện như sau:

- Về thú vui: Ma quỷ xúi Đức Giê-su thỏa mãn cơn đói bánh ăn vật chất và các đam mê lạc thú. Nhưng Người đã chiến thắng bằng lời khẳng định: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.

- Về lợi lộc:  Ma quỷ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giê-su nếu Người chịu tôn thờ nó. Nhưng Người chỉ nhận quyền lực từ Thiên Chúa (x. Lc 1,32b), chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất phải tôn thờ (x. Lc 4,8).

- Về danh vọng: Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su tìm hư danh bằng cách xúi Người nhảy từ nóc Đền thờ để được ca tụng, vì sẽ được Thiên Chúa kịp thời can thiệp cho được an toàn (x. Lc 4,10-11). Đức Giê-su đã không chấp nhận thử thách quyền năng của Thiên Chúa, bằng cách trưng dẫn lời Kinh thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Đnl 6,16).

Dù bị cám dỗ về mọi mặt, nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Vũ khí Người sử dụng để chống lại chước cám dỗ là lòng yêu mến Chúa Cha, luôn vâng phục thánh ý Cha và quyết tâm làm đẹp lòng Cha.

 

3. Đánh giá thế nào về kế hoạch cám dỗ của ma quỷ?

Ma quỷ rất khôn ngoan, chúng có những cách lừa đảo rất tinh vi, khi gây ra ảo tưởng để đánh lừa, nhằm đưa người ta vào bẫy mà không thể thối lui.

Mỗi cơn cám dỗ gồm ba thành phần: Người bị cám dỗ là mỗi người chúng ta, kẻ chủ động cám dỗ là ma quỷ, trung gian cám dỗ là người hay hoàn cảnh chung quanh. Như vậy chúng ta có ba kẻ thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt mình.

Phương cách cám dỗ của ma quỷ rất xảo quyệt. Nó không bao giờ dụ dỗ người ta phạm ngay tội nặng, mà chỉ bắt đầu bằng các tội nhẹ. Chúng không bao giờ cám dỗ một lần rồi thôi, mà luôn lặp đi lặp lại nhiều lần, cho đến khi người ta hoàn toàn chiều theo. Chúng không cám dỗ trực tiếp mà thường qua người hay vật trung gian như dùng bà E-và để cám dỗ ông A-đam, dùng phim ảnh sách báo internet để cám dỗ người trẻ phạm tội…

 

4. Phải làm gì để chiến thắng ma quỷ cám dỗ?

Ma quỷ có sức mạnh và nhiều mưu mô xảo quyệt nên để đương đầu với chúng, ta cần áp dụng các phương thế như sau:

- Cần tin cậy và cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp: Đức Giê-su đã nói với ông Phê-rô: “Si-môn, Si-môn ơi. Kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,31). Loài người yếu đuối dễ bị sa ngã phạm tội nên cần xin Chúa ban thêm đức tin và trợ giúp thì mới có thể chiến thắng ma quỷ như lời Chúa phán: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

- Tỉnh thức cầu nguyện luôn: Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26,41). Trong kinh Lạy Cha, Đức Giê-su cũng dạy: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6,13). Người còn dạy môn đệ phải trừ quỷ bằng sự cầu nguyện và ăn chay: “Loại quỷ đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay” (Mc 9,29).

- Phải quyết tâm chiến đấu: Chiến đấu bằng sự khiêm hạ bỏ ý riêng mình để vâng theo ý Thiên Chúa; Bằng lối sống siêu thoát, coi thường của cải vật chất và không tham lam danh vọng chức quyền trần gian; Năng hãm mình ăn chay để làm chủ bản thân và sống tiết độ để không sa đà vào thói ăn nhậu say sưa như lời thánh Phê-rô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự…” (1 Pr 5,8-9).

Trong Mùa Chay này, noi gương Đức Giê-su, chúng ta hãy nghe theo hướng dẫn của Thánh Thần để vào sa mạc tâm hồn, tham dự các buổi tĩnh tâm mùa chay. Hãy cùng với Đức Giê-su giữ sự thinh lặng, siêng năng cầu nguyện và ăn chay hãm mình, để được gia tăng nội lực thiêng liêng. Hạn chế tiêu xài những gì không cần để đóng góp vào các công trình xây dựng của Hội Thánh và công tác chia sẻ bác ái. Nhờ việc chuyên cần học sống lời Chúa và nhờ ơn Chúa giúp, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng ma quỷ cám dỗ và ngày một nên tốt lành thánh thiện hơn, có khả năng chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng làm chứng cho Chúa.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, trong những ngày chay thánh này, xin cho chúng con chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ nhờ năng tỉnh thức cầu nguyện, hãm mình ăn chay để làm chủ bản thân. Xin cho chúng con biết bỏ cái tôi ích kỷ của mình, vác thập giá mình mà đi theo Chúa. Cho chúng con chấp nhận đi con đường hẹp, đường nghèo khó khiêm nhu và hy sinh phục vụ. Ước gì chúng con ngày một lớn lên về đức tin cậy mến. Và nếu chẳng may chúng con có lần nào yếu đuối sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết noi gương tông đồ Phê-rô: lập tức trỗi dậy hồi tâm sám hối và khiêm tốn lãnh ơn giao hoà với Chúa trong bí tích giải tội. Amen.

 

GOSPEL (Lk 4:1-13):

Filled with the Holy Spirit, Jesus returned from the Jordan
and was led by the Spirit into the desert for forty days,
to be tempted by the devil.
He ate nothing during those days,
and when they were over he was hungry.
The devil said to him,
“If you are the Son of God,
command this stone to become bread.”
Jesus answered him,
“It is written, One does not live on bread alone.”
Then he took him up and showed him
all the kingdoms of the world in a single instant.
The devil said to him,
“I shall give to you all this power and glory;
for it has been handed over to me,
and I may give it to whomever I wish.
All this will be yours, if you worship me.”
Jesus said to him in reply,
“It is written
You shall worship the Lord, your God,
and him alone shall you serve.
Then he led him to Jerusalem,
made him stand on the parapet of the temple, and said to him,
“If you are the Son of God,
throw yourself down from here, for it is written:
He will command his angels concerning you, to guard you,
and:
With their hands they will support you,
lest you dash your foot against a stone.
Jesus said to him in reply,
“It also says,
You shall not put the Lord, your God, to the test.
When the devil had finished every temptation,
he departed from him for a time.

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Thứ 4 Lễ Tro Mùa Chay - Năm C -

TIN MỪNG: Mt 6,1-6.16-18. 

Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Mát-thêu:

Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: Chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: Chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.

Đó là Lời Chúa.

 

I. SUY NIỆM:

Đức Giê-su đòi môn đệ phải làm các việc đạo đức như bố thí, cầu nguyện và ăn chay theo tinh thần mới của Người. Điều quan trọng là phải làm các việc này trong sự khiêm tốn: Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để được khen có lòng bác ái; Tránh cầu nguyện ở chỗ đông người để được đánh giá là có lòng đạo đức; Tránh ăn chay với vẻ mặt thiểu não để được ca tụng có tinh thần hy sinh hãm mình.

Hội thánh cử hành nghi thức làm phép và xức tro để khai mạc Mùa Chay Thánh. Trong nghi lễ xức tro, Hội Thánh nhắc nhở mọi tín hữu: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro. Một mai người sẽ trở về bụi tro”. Khi lãnh tro lên đầu là chúng ta nhận mình chỉ là tro bụi như tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã cầu nguyện với Đức Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27), đồng thời chúng ta cũng bày tỏ lòng sám hối và tin vào Tin Mừng của Đức Giê-su như lời Người dạy: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14).

 

1. Ba việc nên làm Mùa Chay là bố thí, cầu nguyện và ăn chay:

a. Bố thí kín đáo:

- Các việc đạo đức cần phải đi đôi với lòng mến Chúa yêu người mới có giá trị trước mặt Thiên Chúa như lời thánh Phao-lô: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).

- Bố thí là chia sẻ cơm bánh vật chất cho những người nghèo đói. Nhưng cần tránh phô trương, mà làm cách kín đáo: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”.

b. Cầu nguyện âm thầm:

- Cầu nguyện là dấu hiệu của đức tin. Bao lâu người ta còn cầu nguyện thì còn chứng tỏ họ đang có đức tin. Khi thôi không cầu nguyện nữa cho thấy đức tin của họ đã chết như lời thánh Gia-cô-bê dạy: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17).

- Lời cầu nguyện cần mang đặc tính khiêm tốnchân thànhtin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa và với sự kiên trì. Lời cầu nguyện chỉ được Chúa chấp nhận nếu cầu xin kèm theo đức tin mạnh, cầu xin nhân danh Đức Giê-su và cầu xin các ơn lành hồn xác thực sự mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời (x. Mt 7,11).

c. Ăn chay hãm mình:

- Ngay từ thời các vua, dân Ít-ra-en đã có thói quen ăn chay mỗi khi có tang chế (x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá hoặc trong những lúc gặp thiên tai. Đến thời Chúa Giê-su, các người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12).

- Về cách thức ăn chay: Luật Mô-sê quy định ăn chay là tự nguyện nhịn ăn uống vào ban ngày. Trong thời gian ăn chay, người ta không được tắm rửa, phải để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo đặc biệt bằng vải thô. Luật buộc ăn chay trong ngày lễ Xá tội (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9). Đức Giê-su dạy môn đệ phải ăn chay trong sự khiêm hạ: thay vì rắc tro lên đầu, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn...như người Biệt phái thường làm, thì hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm như các ngày khác, để người ngoài không biết mình đang hãm mình đền tội. Chỉ cần Thiên Chúa thấu suốt và sẽ ban ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.

 

2. Chúng ta phải làm gì?

a. Tránh ăn chay hình thức vụ luật và phô trương:

- Có những người ăn chay vụ luật hoặc vì sợ bị Chúa phạt: Những người này ăn chay để khỏi mắc tội. Do đó nếu trong ngày chay lỡ quên ăn vặt, ăn không đúng giờ... thì đâm ra lo lắng áy náy. Họ tính toán: Ngày mai ăn chay thì hôm nay sẽ ăn uống no say như thói tục “Thứ Ba Béo” của một số dân các nước Âu châu.

- Cũng có người trong ngày giữ chay tuy không ăn thịt, nhưng lại ăn đồ hải sản, tôm hùm, cá hồi… còn mắc tiền hơn thịt. Họ tuy giữ luật ăn chay nhưng thiếu tinh thần chay là hãm mình đền tội, nên việc ăn chay của họ không đẹp lòng Thiên Chúa.

b. Hãy thực thi công bình bác ái:

- Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Đức Chúa: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm ? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em?

- Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe dọa và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. Đức Chúa sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi, giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được no lòng; xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới đẫm, như mạch suối không cạn nước bao giờ” (Is 58,6-11).

 

3. Một số việc làm thiết thực:

Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, hãy đến nhà thờ để nhận tro trên đầu. Trong nghi thức xức tro, Hội Thánh nhắn nhủ: “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụimột mai người sẽ trở về bụi tro”; hoặc “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”. Nhận tro trên đầu như vậy là để bày tỏ lòng sám hối và quyết tâm cải tà quy chánh: Hãm dẹp các đam mê bất chính, các thói hư tật xấu, loại bỏ những hành vi ám muội làm mất lòng Chúa và phiền lòng anh em.

Luật Hội Thánh quy định việc ăn chay mỗi năm còn hai ngày là Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Không phải Hội Thánh coi thường việc ăn chay, nhưng muốn các tín hữu chú trọng nhiều hơn đến tinh thần chay tịnh như sau:

- Nhịn ăn một chén cơm không bằng nhịn nói một lời xúc phạm người khác.

- Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn một cử chỉ khinh thường anh em.

- Nhịn ăn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, sẵn sàng làm hòa với nhau.

- Kiềm chế cơn đói không bằng kiềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện chơi games trên máy tính...

- Kiềm chế cơn khát không bằng kiềm chế các dục vọng, loại bỏ thói tham lam và tính tự ái kiêu ngạo, tính thích gây hấn với người khác.

  1. Ngôn Sứ Giô-en kêu gọi dân Do thái: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Người Do-thái có tục lệ xé áo để biểu lộ lòng thống hối khi ăn chay. Người tín hữu hôm nay cần ý thức:

- Xé áo bề ngoài không bằng xé lòng khỏi thói tham lam, ăn ở bất công.

- Xé lòng ra khỏi sự lười biếng, khô khan, nguội lạnh.

- Xé lòng khỏi những dính bén danh lợi thú trần gian.

- Xé lòng khỏi thói gian dối, đạo đức giả như người Biệt Phái.

Chỉ khi thực sự xé lòng như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa; Mới đến gần Chúa, sống thân mật với Chúa và hưởng được tình thương bao dung của Chúa.

Ngoài ra, chúng ta hãy biến việc ăn chay thành Hành động bác ái cụ thể.Mỗi ngày trong Mùa Chay, hãy bớt chi tiêu để gửi tiền giúp những nơi nghèo khổ, vùng bị thiên tai lũ lụtđồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa… Nhờ thế, việc ăn chay của ta sẽ không chỉ dừng lại ở hình thức bề ngoài, nhưng là những hy sinh hãm mình và những việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, cùng với toàn thể Hội thánh, chúng con đã bước vào Mùa Chay. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thời kỳ thuận tiện để duyệt xét cuộc đời chúng con, hầu bù đắp những thiếu sót, sửa chữa những lệch lạc nơi con người chúng con. Xin Chúa hãy chiếu ánh sáng của Chúa trên chúng con, để chúng con quyết tâm đổi mới nên môn đệ đích thực của Chúa. Amen.

 

GOSPEL (Mt 6:1-6,16-18):

Jesus said to his disciples:
“Take care not to perform righteous deeds
in order that people may see them;
otherwise, you will have no recompense from your heavenly Father.
When you give alms,
do not blow a trumpet before you,
as the hypocrites do in the synagogues and in the streets
to win the praise of others.
Amen, I say to you,
they have received their reward.
But when you give alms,
do not let your left hand know what your right is doing,
so that your almsgiving may be secret.
And your Father who sees in secret will repay you.
“When you pray,
do not be like the hypocrites,
who love to stand and pray in the synagogues and on street corners
so that others may see them.
Amen, I say to you,
they have received their reward.
But when you pray, go to your inner room,
close the door, and pray to your Father in secret.
And your Father who sees in secret will repay you.
“When you fast,
do not look gloomy like the hypocrites.
They neglect their appearance,
so that they may appear to others to be fasting.
Amen, I say to you, they have received their reward.
But when you fast,
anoint your head and wash your face,
so that you may not appear to be fasting,
except to your Father who is hidden.
And your Father who sees what is hidden will repay you.”

The Gospel of the Lord

 

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật VIII Thường Niên - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 6,39-45. 

Lòng có đầy, miệng mới nói ra.”

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Đức Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em! ”Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy môn đệ 3 điều:

- Phải biết tự sửa lỗi mình trước khi sửa lỗi tha nhân.

- Xem quả biết cây: Chính hành động sẽ chứng minh người tốt hay kẻ xấu.

- Lòng người giống như một cái kho. Môn đệ Đức Giê-su cần chứa nhiều Lời Chúa trong lòng để từ đó sẽ phát sinh lời nói và việc làm tốt.

 

A. GỢI Ý:

1. “Xem quả thì biết vườn cây”. Tác giả sách Huấn Ca đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn để lượng giá phẩm chất của một con người. Thái độ kiên nhẫn để lắng nghe người khác trình bày lý lẽ là hết sức cần thiết để có thể hiểu đúng về một con người. Thế nên, sự vội vã, hấp tấp có thể dẫn tới những đánh giá không khách quan đủ, thậm chí còn gây ra những tổn thương không thể chữa lành.

2. “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình”. Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta một nguyên tắc làm thước đo để mỗi người có thể lượng giá về chính mình. Điều tốt chỉ phát sinh từ một tấm lòng tốt. Tự huấn luyện mình để luôn suy nghĩ về những điều tốt đẹp, tích cực. Tập suy nghĩ tích cực nhất là khi phải đối diện với những thực tại xem ra có vẻ rất tiêu cực.

3. “Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã…” Đây là điều trước tiên, điều cốt yếu cần thực hiện trước tất cả mọi công việc khác. Nhưng đây cũng là điều khó khăn hơn cả trong tiến trình hoàn thiện bản thân như Cha Trên Trời, Đấng Hoàn Thiện (x. Mt 5,48). Ý thức mình bất toàn để biết đâu là “cái xà” của tôi, và luôn thao thức hoàn thiện mình để nỗ lực “lấy nó ra khỏi mình trước đã…” sẽ là khởi điểm tất yếu giúp ta có thể sống thái độ đạo đức thật như Chúa Giêsu mời gọi.

 

B. SUY NIỆM:

1. Phải tránh bệnh mù quáng tâm hồn:

“Mù dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố” là một thực tế thường xảy ra trong cuộc sống. Vì thế người mù luôn cần được người sáng mắt trợ giúp để đi đúng hướng và không bị vấp ngã hay bị lạc đường. Về mặt tâm linh người mù tâm hồn nếu không có người hướng dẫn sẽ dễ có quyết định sai lạc, vừa gây hại cho bản thân lại vừa gây thiệt hại cho tha nhân. Tuy nhiên, thực tế vẫn có nhiều người bị mù tâm linh lại không nhận ra mình đang bị mù. Chính do thói xấu tự mãn kiêu ngạo khiến người ta luôn coi mình là trung tâm của xã hội, suy nghĩ của mình là chân lý, và đánh giá người khác theo tầm nhìn hạn hẹp của mình. Đây chính là nguyên nhân của những kẻ độc tài gây ra bao nỗi đau khổ bất hạnh cho nhân loại. Về mặt xã hội, người “hữu tài vô hạnh” có thể trở thành những quan tham. Nhưng ngược lại: kẻ có đức mà không có tài cũng dễ bị thất bại làm hỏng việc lớn khi lãnh đạo một tập thể lớn nhỏ, như người ta thường nói: “Nhiệt tình cộng với ngu dốt là phá hoại”.

 

2. Phải tránh xét đoán ý trái cho người khác:

“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6,41). Người ta thường hà tiện trong lời khen, nhưng lại rộng rãi trong lời chê. Có thể nói: một trong những tội con người hay phạm là thói xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai quấy cho người khác, nhất là cho những kẻ mình không ưa.

Người xưa có câu: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại mình để tự kiểm cần phải làm hằng ngày. Nhất là đối với những ai đang giữ vị trí lãnh đạo cộng đoàn. Hãy năng cầu nguyện như thánh Au-gút-ti-nô:

“Lạy Chúa Giê-su, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.

Nhờ biết mình hèn yếu dễ sai lỗi nên con sẽ không dám xét đoán và kết án anh em.

Nhờ biết mình hay che đậy và giả hình nên con sẽ cảm thông và tha thứ anh em.

Nhờ biết mình háo thắng, thích được khen, nên con sẽ tránh chê trách anh em.

 

3. Hãy tự sửa mình trước khi sửa lỗi tha nhân:

Người ta dễ phát hiện ra khuyết điểm lỗi lầm dù nhỏ bé của người khác mà không nhận ra lỗi lầm dù lớn lao của mình. Nguyên nhân là do chúng ta có tính ích kỷ tự mãn nên dễ bị mù quáng khi xét đoán người khác.

- Lời Chúa hôm nay dạy: Đừng vội kết án anh em khi chính mình đầy những khuyết điểm, như người đời thường nói: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người!”. Tuy nhiên nếu đang nắm giữ nhiệm vụ làm cha mẹ phải giáo dục con cái trong gia đình, làm thầy dạy phải hướng dẫn học sinh nơi học đường hoặc làm người lãnh đạo trong môi trường xã hội, thì để lời sửa dạy có sức thuyết phục, đòi chúng ta phải tu sửa khuyết điểm của mình trước khi răn dạy kẻ khác.

- Cần ưu tiên sửa lỗi của mình: Một nhà thần bí Ấn độ đã phát biểu kinh nghiệm sau nhiều năm làm việc như sau: Tôi là một nhà cách mạng từ khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu xin với Chúa là: “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để con cải tạo thế giới nên tốt hơn”. Nhưng khi tới tuổi trung niên, tôi nhận ra nửa cuộc đời đã qua đi rồi mà tôi vẫn chưa cải tạo được thế giới, nên tôi thay đổi lời cầu: “Lạy Chúa, xin cho con hoán cải những người con gặp gỡ tiếp xúc”. Bây giờ khi đã về già và sắp kết thúc cuộc đời, tôi thấy mình cũng vẫn chưa biến đổi được ai, nên nhận ra mình thật khờ dại và đã thay đổi lời cầu như sau: “Lạy Chúa, xin cho con được ơn hoán cải chính bản thân con”. Giả như ngay từ khi còn trẻ tôi đã ý thức về sự bất lực của mình như thế, thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời cách vô ích!”

 

4. Chúng ta phải làm gì?

- Tránh xét đoán ý trái cho người khác: Trong cuộc sống, khi chuyện trò với bè bạn, chúng ta thường khoe những điều tốt về bản thân hoặc người thân để tự đề cao mình hay gia đình mình, và hay nói xấu chê trách những người chúng ta có ác cảm. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã dạy về vấn đề xét đoán nói xấu tha nhân như sau: “Những ai phán xét, nói xấu anh chị em mình thì họ đích thực là kẻ giả hình, vì họ không đủ can đảm nhận ra các thiếu sót, lỗi lầm của bản thân mình”. Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay cũng dạy các môn đệ: “Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em! (Lc 6,42).

- Hãy xét đoán ý tốt cho tha nhân: Khi phê phán chỉ trích kết án một người nào là chúng ta đã biểu lộ sự ác cảm đối với họ. Trái lại, đối với những người có thiện cảm, chúng ta sẽ dễ dàng xét đoán khoan dung và bào chữa lỗi lầm cho họ. Do đó, chúng ta hãy xin Chúa gia tăng tình thương trong lòng chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ đối xử khoan dung và hóa giải được thù hận bằng sự quảng đại tha thứ. Biết lấy ơn báo oán để biến tha nhân nên bạn hữu của mình.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin giúp chúng con sống theo Lời Chúa là “Lời có ích lợi cho việc dạy dỗ, biện bác, sửa trị và rèn luyện trong công chính: để người của Thiên Chúa trở nên trọn hảo và sẵn sàng thực hiện mọi việc lành” (2 Tm 1,16–17). Xin cho chúng con có đôi mắt của Chúa, để nhìn anh em như một hồng ân và là quà tặng của Chúa ban cho. Xin ban cho chúng con trái tim của Chúa, để chúng con luôn sống yêu thương với lòng bao dung tha thứ và biết xót thương tha nhân. Cuối cùng xin cho chúng con học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng để chúng con nên chứng nhân cho tình thương của Chúa trước mặt người đời. Amen.

 

GOSPEL (Lk 6:39-45):

Jesus told his disciples a parable,
“Can a blind person guide a blind person?
Will not both fall into a pit?
No disciple is superior to the teacher;
but when fully trained,
every disciple will be like his teacher.
Why do you notice the splinter in your brother’s eye,
but do not perceive the wooden beam in your own?
How can you say to your brother,
“Brother, let me remove that splinter in your eye,”
when you do not even notice the wooden beam in your own eye?
You hypocrite! Remove the wooden beam from your eye first;
then you will see clearly
to remove the splinter in your brother’s eye.
“A good tree does not bear rotten fruit,
nor does a rotten tree bear good fruit.
For every tree is known by its own fruit.

For people do not pick figs from thornbushes,
nor do they gather grapes from brambles.
A good person out of the store of goodness in his heart produces good,
but an evil person out of a store of evil produces evil;
for from the fullness of the heart the mouth speaks.”

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật VII Thường Niên - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 6,27-38. 

“Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.”

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong.  Ai xin thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy. Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ơn với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì ơn với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác”. Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Bài Tin mừng hôm nay là bản tóm lược các lời Đức Giê-su dạy về cách cư xử đối với kẻ thù và những kẻ gian ác, để xứng đáng làm con Thiên Chúa và được tóm lại như sau: Hãy chúc lành để đáp lại những kẻ nguyền rủa; Hãy xin Chúa ban điều tốt lành cho những kẻ vu khống mình; Hãy dùng nhu thắng cương và lấy ơn báo óan; Hãy làm cho kẻ khác trước điều mình muốn họ làm cho mình. Hãy tỏ lòng khoan dung nhân từ đối với những kẻ vô ơn bạc ác với mình. Làm ơn và cho vay mượn mà không mong báo đền. Không xét đoán ý trái và đừng vội kết án tha nhân. Hãy quảng đại tha thứ và cho đi. Tất cả những điều tốt ấy sẽ không vô ích, nhưng sẽ được Thiên Chúa báo đền ở đời sau.

 

A. GỢI Ý:

1. Ông Đavít đã vượt thắng được cám dỗ trả thù khi kẻ thù ở trong tầm tay ông. Ông hiểu rằng sự sống của người được Thiên Chúa xức dầu, dù là kẻ thù của ông, nằm trong tay Thiên Chúa và chỉ mình Người mới có quyền quyết định. Cách hành xử của ông Đavít cho thấy ông xứng đáng được Thiên Chúa thưởng công vì sự công chính và lòng trung thành (x.1 Sm 26,23). Trả thù dường như là một phản ứng tự nhiên của con người khi bị xúc phạm hay bị đe doạ, nhưng vượt thắng xu hướng trả thù mới là phẩm chất của con cái Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa, Đấng ban sự sống, mới có quyền quyết định tối hậu trên sự sống và cái chết của con người.

2. Đối với thánh Phaolô, Đức Kitô Phục Sinh thay đổi thân phận con người từ tình trạng giống Ađam đầu tiên, chỉ có sinh khí, bởi đất mà ra, trở nên con người có thần khí vì được chia sẻ sự sống thần linh của Đức Kitô. Con người không thể tránh khỏi cái chết nhưng có thể mặc lấy sự sống bất diệt của Đức Kitô khi sống theo lời Người và nên một với Người nhờ bí tích Thánh Thể. Đức Kitô Phục Sinh thật là niềm hy vọng lớn lao và là cùng đích viên mãn cho mọi Kitô hữu.

3. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người thoát ra khỏi lối sống tính toán theo kiểu thế gian mà sống theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Là con cái của một Thiên Chúa nhân từ, hay thương xót và quảng đại thứ tha, người môn đệ cũng được mời gọi theo gương Thầy Giêsu sống trao ban cách quảng đại, rộng lượng thứ tha và yêu thương cả những người mình không ưa. Càng sống nhân hậu với hết mọi người, trao ban mà không tính toán, và tha thứ cách vô điều kiện, người Kitô hữu càng trở nên giống Thiên Chúa, Đấng sẽ ân thưởng cách dư tràn cho những ai sống theo đường lối của Người.

 

B. SUY NIỆM:

1. Ác giả ác báo:

Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, “Gieo gió gặt bão” Ai làm ác thì sẽ gặp phải điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm óan thù. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới hóa giải hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giê-su để tha thứ cho tha nhân điều họ đã xúc phạm đến ta thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ ngày càng tăng thêm, rồi bạo lực sẽ kéo theo bạo lực và tất cả chúng ta đều bị rơi vào hố diệt vong.

 

2. Hậu quả tai hại của lòng hận thù:

Một nhà tâm lý đã nói rằng: “Nếu anh nuôi lòng thù hận và muốn giết chết kẻ thù đã làm hại anh, thì anh hãy sắm sẵn hai chiếc quan tài: Một chiếc dành cho kẻ thù sắp bị anh giết chết. Còn chiếc kia sẽ dành cho chính anh. Vì anh cũng sẽ bị chết dần chết mòn do sợ hãi bị trả thù hay sợ sự trừng phạt của công lý”. Thực vậy, hận thù gây tác hại. Nó làm tổn thương về tinh thần cho người đang nuôi oán thù trong lòng. Nó còn huỷ diệt nhân cách của họ như Ba-con đã nói: “Khi trả thù, người ta biến mình thành ngang hàng với kẻ thù. Còn khi tha thứ thì người ta sẽ vượt cao hơn kẻ thù của mình”.

 

3. Yêu thương là phương cách hữu hiệu để hóa giải hận thù:

Các chuyên gia tâm lý ngày nay đều công nhận rằng: “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương mới làm phát triển nhân cách con người”. Tình yêu có phép mầu để biến thù thành bạn. Abaham Lincoln nói: “Biến thù thành bạn, tức là ta đã tiêu diệt kẻ thù rồi vậy!”. Chính Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay đã dạy chúng ta: “Anh em hãy yêu kẻ thù... Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. Hãy cho đi thì sẽ được cho lại!” (Lc 6,35).

 

4. Làm gì để biến thù thành bạn:

a. Tìm ra nguyên nhân khiến ta bị thù ghét để khắc phục:

Hầu hết sự ganh ghét của người khác đối với ta là do nỗi sợ sẽ không còn được tôn trọng và yêu thương. Việc xác định nguyên nhân ta bị ganh ghét là bước đầu cần làm để hóa giải sự thù ghét của kẻ khác. Sự ganh ghét có thể do chúng ta có ngoại hình đep hơn; được nhiều người quý mến hơn; được cấp trên tín nhiệm và trao trách nhiệm cao hơn; được hưởng phúc lộc dồi dào hơn… Một khi đã tìm ra nguyên nhân khiến ta bị thù ghét, chúng ta sẽ khắc phục và hóa giải sự thù ghét.

b. Khắc phục và hóa giải sự thù ghét bằng thực thi yêu thương:

Kín đáo khen ngợi những ưu điểm của đối phương: Lời khen ưu điểm của đối phương cách tế nhị và thành thật là phương thế hữu hiệu để hóa giải hận thù và biến thù thành bạn như Tuân Tử đã nói: “Ai khen ta mà khen phải là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy.”

Đi bước trước để làm hòa và biến thù thành bạn: Sự xuất hiện của những người ganh ghét trong cuộc sống là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả Đức Giê-su vốn là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34), nhưng vẫn bị các đầu mục dân Do thái thù ghét và chỉ trích: “Ông ta là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7,34).

Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách hóa giải những thù ghét của kẻ khác bằng cách không chấp nhất nhưng đi bước trước đến với họ và “biến thù thành bạn” bằng các phương thế như sau:

- Cầu xin Chúa ban ơn lành cho kẻ đã nói xấu và vu khống làm hại ta;

- Lấy ơn báo oán: Làm một việc tốt cho kẻ đang thù ghét ta;

- Làm ơn và cho vay mà không mong báo đền;

- Không xét đoán ý trái và không kết án tha nhân cách hồ đồ và bất công;

- Sẵn sàng tha thứ không chỉ tha bảy lần nhưng tha bảy mươi lần bảy;

- Quảng đại cho họ lời khen thành thật để động viên tinh thần và chia sẻ vật chất...

Đây là những việc sẽ khó thực hiện nếu không quyết tâm cao và không được ơn Chúa nâng đỡ trợ giúp. Khi bị người khác thù ghét nói xấu và làm hại, chúng ta cần bình tĩnh tìm cách hóa giải hận thù để nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trước tha nhân, nhưng biết quảng đại mở ra, biết vươn tâm hồn lên cao, vượt qua mọi ích kỷ tầm thường của loài người, để mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Xin cho con đủ sức vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen cùng mọi trả thù ti tiện. Xin cho con luôn giữ được tâm hồn bình thản, không để cho bất cứ yếu tố bên ngoài nào làm xáo trộn, khuấy động tâm can con. Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu được những người tự nhiên con có ác cảm. Xin cho vòng tay con rộng mở để ôm cả những kẻ đang ganh ghét, vu khống và làm hại con. Nhờ đó con hy vọng sẽ được Chúa tha thứ tội lỗi và xứng đáng làm con thảo của Chúa Cha trên trời và nên môn đệ thực sự của Chúa. Amen.

 

GOSPEL (Lk 6:27-38):

Jesus said to his disciples:
“To you who hear I say,
love your enemies, do good to those who hate you,
bless those who curse you, pray for those who mistreat you.
To the person who strikes you on one cheek,
offer the other one as well,
and from the person who takes your cloak,
do not withhold even your tunic.
Give to everyone who asks of you,
and from the one who takes what is yours do not demand it back.
Do to others as you would have them do to you.
For if you love those who love you,
what credit is that to you?
Even sinners love those who love them.
And if you do good to those who do good to you,
what credit is that to you?
Even sinners do the same.
If you lend money to those from whom you expect repayment,
what credit is that to you?

Even sinners lend to sinners,
and get back the same amount.
But rather, love your enemies and do good to them,
and lend expecting nothing back;
then your reward will be great
and you will be children of the Most High,
for he himself is kind to the ungrateful and the wicked.
Be merciful, just as your Father is merciful.
“Stop judging and you will not be judged.
Stop condemning and you will not be condemned.
Forgive and you will be forgiven.
Give, and gifts will be given to you;
a good measure, packed together, shaken down, and overflowing,
will be poured into your lap.
For the measure with which you measure
will in return be measured out to you.”

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật VI Thường Niên - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 6,17.20-26. 

Phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông. Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đon đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa. Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các Ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế. Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than. Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.”

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Bài Tin mừng Lu-ca hôm nay ghi lại bài giảng khai mạc của Đức Giê-su tương đương với Tám Mối Phúc Thật trong Tin mừng Mát-thêu. Nội dung được tóm lại như sau:

- Bốn lời chúc phúc (c 20-23): Phúc cho những kẻ nghèo khó, đói khát, ưu sầu và bị bách hại, vì bây giờ Chúa đến thiết lập Nước Thiên Chúa, họ sẽ được đền bù những thiệt thòi đang phải chịu bằng ơn cứu độ là hạnh phúc đời đời

- Bốn lời thở than (c 24-26): Đây là những lời cảnh báo và ngăm đe đối với những kẻ đang sống trong giàu có, được no đầy, vui cười và được ca tụng, vì những điều ấy sẽ không còn tồn tại khi Nước Thiên Chúa đến trong Ngày của Chúa. Bấy giờ kẻ giàu có sẽ trở thành trắng tay, kẻ no nê sẽ phải chịu đói khát, kẻ vui cười sẽ phải chịu khổ đau, kẻ được vinh dự trước mặt người đời sẽ bị tước đọat tất cả.

 

A. GỢI Ý:

1. Bài đọc I cho thấy rõ hai nẻo đường người tín hữu cũng như hệ quả của nó. Nhìn lại mình, đâu là con đường mà tôi đã đi trong thời gian qua? Tôi có ước ao được bước đi trên con đường của Chúa? Đâu là những phương thế và những chọn lựa hàng ngày có thể giúp tôi điều này?

2. Lịch sử cứu độ khởi đi từ Ápraham với lời hứa là đất đai, là dòng dõi, là tuổi thọ miên trường cho những ai bước đi trong đường lối Chúa. Mạc khải về một phần thưởng đời sau vẫn còn mù mờ và chưa rõ ràng. Đức Giêsu Kitô, với sự Phục Sinh của Người, đã thỏa khát vọng ngàn năm con người nơi dương thế: sự sống đời sau. Vậy niềm tin, cách sống đạo của tôi có phản ánh và đáp trả mạc khải này? Đích điểm của đời tôi là những giá trị vật chất trần thế hay giá trị thiêng liêng mai sau?

3. Đường theo Chúa là đường của phúc lành, nhưng nó lại là đường theo tinh thần Tám Mối Phúc. Vậy tôi đọc thấy được gì qua những hy sinh, thiệt thòi, mất mát trong cuộc sống hàng ngày của tôi và những người anh chị em chung quanh tôi?

 

B. SUY NIỆM:

1. Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó và đang bị đói khát:

Nghèo đói là những tai hoạ mà mọi người đều sợ hãi xa lánh. Vậy tại sao Đức Giê-su lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó: Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói?” Chẳng lẽ Đức Giê-su lại đề cao sự nghèo nàn, đói khát là nguyên nhân gây bao đau khổ cho con người hay sao?

Tất nhiên là không. Đức Giê-su muốn mọi người đều được hạnh phúc no đủ. Trong kinh lạy Cha, Người đã dạy môn đệ cầu xin Chúa Cha “ban cho lương thực hằng ngày”, và chính Người cũng đã làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ở nơi hoang địa nuôi năm ngàn người đang bị đói được ăn no. Nhưng tại sao Đức Giê-su lại chúc phúc cho những người nghèo đói như thế?

Người đời thường nghĩ rằng: hạnh phúc chỉ có được từ người giàu sang, no đủ, có địa vị và danh thơm tiếng tốt. Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã cho các môn đệ biết rằng: các ông mới là những người có phúc, khi theo Người mà phải chịu nghèo đói, đau khổ, bị bách hại…Vì hạnh phúc Nước Thiên Chúa sẽ thuộc về các ông từ hôm nay, và hạnh phúc sẽ viên mãn vào ngày tận thế sau này.

 

2. Gương thực hành các mối phúc:

Đức Giê-su đã sống cảnh nghèo khi chọn cha mẹ là người nghèo. Người làm nghề thợ mộc vất vả kiếm sống hằng ngày tại Na-da-rét. Rồi khi đi giảng đạo Người đã sống siêu thoát như Người đã nói với kẻ muốn theo làm môn đệ rằng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Người đã nhỏ lệ khóc thương La-gia-rô (x. Ga 11,35-36), đã chấp nhận bị bắt bớ, xét xử, đánh đòn, vác thập giá và chết nhục nhã trên cây thập giá giữa hai tên gian phi (x. Mc 14-15). Nhưng Đức Giê-su luôn được hạnh phúc, vì đã vâng theo ý Cha (Mc 14,36). Người đã được Cha xác nhận là con yêu dấu luôn đẹp lòng Cha (x. Mc 1,11). Người đã chúc phúc cho những người nghèo bị thiệt thòi do thiếu ăn thiếu mặc, bệnh tật đau khổ… nếu họ biết tin và đi theo làm môn đệ của Người. Họ sẽ được Người bù đắp bằng ban thưởng hạnh phúc Nước Thiên Chúa đời này và đời sau.

 

3. Sống tinh thần nghèo khó là điều kiện để được hạnh phúc:

Trong cuộc sống trần gian, biết bao người đã không bị đồng tiền mê hoặc. Họ chọn lối sống nghèo khó siêu thoát noi gương Đức Giê-su. Bù lại, họ sẽ được Người ban hạnh phúc Nước Thiên Chúa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên hư đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.” (Lc 6,17-23).

 

4. Một số việc làm cụ thể để xây dựng Nước Thiên Chúa:

- Hôm nay Đức Giê-su muốn các tín hữu chúng ta cộng tác với Chúa trong sứ vụ cứu độ loài người. Người muốn chúng ta tích cực sống giới răn yêu thương bằng việc xóa đói giảm nghèo, loại trừ các tệ nạn xã hội như: ma túy, đĩ điếm, tạo thêm công ăn việc làm cho người thất nghiệp, sản xuất ra nhiều của cải cho xã hội...

- Người muốn chúng ta loại bỏ lòng tham tiền bạc bất chính: Một em học sinh sẵn sàng trả lại số tiền lượm được cho người đánh rơi; Một giáo viên nghèo nhưng kiên trì với nghề dạy học; Một thư ký riêng của giám đốc sẵn sàng từ bỏ công việc thu nhập cao để tránh phải bán rẻ nhân phẩm; Một giám đốc cơ quan sẵn sàng từ chối những đồng tiền bất chính…

- Chúng ta hãy cầu xin cho mọi tín hữu, biết noi gương Chúa Giê-su để lấy hạnh phúc của người khác làm hạnh phúc của mình. Biết tích cực góp phần biến đổi thế giới mình đang sống nên “Trời Mới Đất Mới” như sách Khải huyền tiên báo: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” (Kh 21,4).

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chúc phúc cho người nghèo không phải để họ tiếp tục sống bần cùng nghèo khổ. Sứ mệnh của Chúa đến là để thiết lập Nước Trời, biến đổi thế giới đang sống trở thành thiên đàng trần gian, trong đó mọi người biết sống siêu thoát với của cải trần gian, biết quảng đại chia sẻ tình thương cho nhau. Xin cho chúng con ý thức trách nhiệm biến đổi xã hội chúng con đang sống ngày một ấm no hạnh phúc hơn và công bình nhân ái hơn, đón chờ ngày Chúa quang lâm. Amen.

 

GOSPEL (Lk 6:17,20-26):

Jesus came down with the Twelve
and stood on a stretch of level ground
with a great crowd of his disciples
and a large number of the people
from all Judea and Jerusalem
and the coastal region of Tyre and Sidon.
And raising his eyes toward his disciples he said:

“Blessed are you who are poor, for the kingdom of God is yours.
Blessed are you who are now hungry, for you will be satisfied.
Blessed are you who are now weeping, for you will laugh.

Blessed are you when people hate you, and when they exclude and insult you, and denounce your name as evil on account of the Son of Man.

Rejoice and leap for joy on that day!
Behold, your reward will be great in heaven.
For their ancestors treated the prophets in the same way.

But woe to you who are rich, for you have received your consolation.

Woe to you who are filled now, for you will be hungry.

Woe to you who laugh now, for you will grieve and weep.

Woe to you when all speak well of you,
for their ancestors treated the false prophets in this way.”

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật V Thường Niên - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 5,1-11. 

Họ bỏ hết mọi sự mà theo Người.

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Một hôm, đám đông chen lấn nhau đến sát bên Người để nghe Lời Thiên Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ Ghen-nê-xa-rét. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lướt. Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-mon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. Giảng xong, Người bảo ông Si-mon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Si-mon đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá đến gần chìm. Thấy vậy, ông Si-mon Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-mon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-mon cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ, Đức Giê-su bảo ông Si-mon: “Đừng sợ. Từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta”. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Bài Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã ngồi trên thuyền của Si-mon mà rao gảng Tin mừng cho dân chúng, và sau đó đã cho Si-mon đánh bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trước phép lạ này, Si-mon đã tuyên xưng đức tin: Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và đã “Từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.

 

A. GỢI Ý:

1. Ngôn sứ Isaia được Thiên Chúa mặc khải cho thấy vinh quang và quyền năng của Người. Đứng trước một Thiên Chúa là Đấng “chí Thánh”, ngôn sứ nhận thấy mình “ô uế” và “tội lỗi”. Tuy vậy, ngôn sứ được Thiên Chúa thanh tẩy miệng lưỡi và mời gọi làm ngôn sứ cho Người. Lời “xin vâng” của ngôn sứ là lời đáp trả của một con người đầy yếu đuối trước một Thiên Chúa toàn năng và chí thánh. Tôi có mở lòng để được Thiên Chúa “thanh tẩy” và sai đi làm ngôn sứ cho Chúa? Tôi có sẵn sàng ra đi với sức mạnh của Thiên Chúa, dẫu vẫn ý thức rằng mình là một người yếu đuối và bất xứng?

2. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ về ơn gọi và sứ mạng rao giảng Tin Mừng mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã trực tiếp ủy thác cho Người. Dẫu vậy, thánh nhân luôn ý thức mình bất toàn và yếu đuối, để sức mạnh của Chúa Kitô được thể hiện qua thánh nhân. Tôi có xác tín rằng tôi được Thiên Chúa mời gọi và sai đi không phải vì tôi xứng đáng hay do tài năng của tôi, mà là vì Thiên Chúa ưu ái và yêu thương, để sức mạnh của Người được thể hiện nơi sự yếu đuối của tôi?

3. Đứng trước quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ qua mẻ cá lạ lùng, ông Phêrô và các bạn chài nhận ra sự yếu đuối và thân phận tội lỗi của mình. Dẫu vậy, các ông đã được Chúa Giêsu khích lệ “đừng sợ” và hãy can đảm nhận sứ mạng “thu phục người ta”, nên các ông đã “đi theo” Người. Với ơn Chúa, tôi có sẵn sàng “từ bỏ” những gì thuộc về tôi và phó thác con người yếu đuối và tội lỗi của mình trong bàn tay quyền năng của Chúa Giêsu? Tôi có đi theo tinh thần của Thầy Giêsu, khi học và làm theo gương mẫu của Thầy là đem Tin mừng cứu độ cho mọi người?

 

B. SUY NIỆM:

Sau khi đã trải qua thử thách bị đồng hương bất tín hãm hại, Đức Giê-su vẫn tiếp tục chu toàn sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Tin Mừng hôm nay đan kết việc rao giảng của Đức Giê-su trên thuyền với phép lạ mẻ cá lạ lùng giúp đỡ ông Si-mon, nhằm kêu gọi ông và các bạn bè thuyền chài của ông quyết tâm từ bỏ mọi sự mà đi theo làm môn đệ của Người, tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian.

 

1. Gương đáp tại ơn Chúa kêu gọi của tông đồ Phê-rô:

- Đức Giê-su xuống thuyền của Si-mon giảng đạo và kêu gọi ông: Sau một đêm vất vả chài lưới luống công vô ích, Si-mon và các bạn đã neo thuyền gần bờ để giặt lưới. Đức Giê-su đã chọn xuống thuyền của ông Si-mon và yêu cầu ông chèo thuyền ra xa bờ một chút, rồi Ngừơi sử dụng thuyền ấy như một giảng đài lộ thiên để công bố Tin Mừng cho đám đông dân chúng đang đứng chen chúc nhau trên bờ hồ.

- “Hãy ra khơi thả lưới bắt cá”: Giảng xong, Đức Giê-su bảo ông Si-mon: “Hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Trước lời mời gọi ấy, tuy cảm nhận được sự bất lực của mình do đã vất vả làm việc suốt đêm cách vô ích, nhưng sau khi nghe Đức Giê-su giảng đạo trên thuyền, ông Si-mon đã tin vào sứ vụ Thiên Sai của Người. Lòng tin yêu Chúa đã khiến ông mạnh dạn thưa với Người: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Kết quả thật bất ngờ: Si-mon đã bắt được một mẻ cá lớn. Sự thành công này cho thấy không phải do tài sức của ông mà hòan tòan do quyền năng của lời Đức Giê-su đem lại, khiến ông xác tín Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai rồi tình nguyện đầu phục Chúa và dứt khóa đi theo làm môn đệ của Người.

- “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”: Phê-rô đã ý thức thân phận tội nhân yếu đuối của mình trước sự cao cả khôn lường của Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, nên ông đã khiêm tốn thưa với Người rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Đây cũng là thái độ của các ngôn sứ như Mô-sê đã sấp mình xuống khi đối diện với Đức Chúa hiện ra trong lửa bụi gai cháy mãi không tàn; như I-sai-a khi được Chúa gọi đã cảm thấy mình dơ bẩn bất xứng… Còn chúng ta hôm nay cần có thái độ nào khi lên rước lễ gặp Chúa mỗi ngày?

- “Từ nay, anh sẽ là người cứu sống người ta”: Qua câu này, Đức Giê-su đã chọn Si-mon vào hàng ngũ tông đồ của Người. Thực ra Si-môn được Đức Giê-su chọn làm tông đồ không phải vì sự tài giỏi: Về văn hóa chắc Si-mon học không cao. Về tài năng thì ngoài nghề lưới cá cũng không có gì giỏi giang. Về tính khí thì hay nóng nảy và phát ngôn bộc trực… Nhưng ông vẫn được Đức Giê-su chọn đứng đầu Hội Thánh chính là nhờ đức tin (x Mt 16,15-19) và lòng mến dành cho Thầy (x Ga 21,15-17). Từ giây phút này tên của Si-mon được Đức Giê-su gắn liền với tên mới Phê-rô nghĩa là Đá Tảng đức tin (x Mt 16,18). Chính ơn Chúa đã biến đổi Si-mon từ một người bắt cá biển trở thành kẻ chuyên đánh bắt các linh hồn.

 

2. Chúng ta phải làm gì?

- Quảng đại góp phần và khiêm tốn cậy nhờ ơn Chúa giúp: Trong Tin Mừng hôm nay, chính nhờ vâng nghe và làm theo lời Chúa mà ông Si-mon đã ra khơi thả lưới và đã bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trong việc tông đồ, các tín hữu chúng ta cũng chỉ đạt kết quả nếu biết năng học sống Lời Chúa và cậy trông vào Thần Khí của Chúa trợ giúp như Người đã cho biết : “Vì không có Thầy anh em không làm được gì” (Ga 15,5).

- Bỏ hết mọi sự mà đi theo Chúa: Đức Giê-su không từ chối thiện chí của chúng ta. Bất kể chúng ta là ai, có khả năng gì, yếu đuối tội lỗi như thế nào… Người luôn mời gọi chúng ta đồng hành để loan báo Tin Mừng cho những anh em lương dân chưa biết Thiên Chúa. Chúng ta hãy mau mắn đáp lại ơn Chúa kêu gọi bằng việc năng tham dự các buổi Học Sống Lời Chúa dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần, quyết tâm chừa bỏ các thói hư, xin ơn Chúa biến đổi chúng ta nên hoàn thiện hơn, chu toàn được sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, hầu giúp mọi người được ơn cứu độ.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, trước đây con cứ thắc mắc không biết tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học và đã có vợ con đùm đề, đi theo làm môn đệ của Chúa, trở thành người đứng đầu Nhóm 12 Tông Đồ. Xem ra Chúa đã xây dựng Hội thánh trên tảng đá Phê-rô không mấy vững chắc, vì ông đã từng hèn nhát chối Chúa ba lần và có nhiều khuyết điểm khiến Chúa phải uốn nắn; Có những lời nói chiều theo ý riêng khiến Chúa phải nặng lời quở trách là Sa-tan! Nhưng qua Tin mừng hôm nay, con nhận ra rằng: Chúa thường sử dụng những gì thế gian coi thường, những con người yếu đuối, dốt nát... như các người thuyền chài, người thu thuế, gái điếm ... cộng tác với Chúa trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Chúa cũng chọn một Vi-an-nây bị đánh giá dốt như con lừa làm linh mục... để qua những con người yếu đuối này, Chúa biểu lộ quyền năng cao cả của Chúa. Xin dạy con biết sống quảng đại: Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng. Biết cho đi mà không cần tính toán. Biết chiến đấu mà không sợ thương tích. Biết làm việc mà không tìm an nghỉ. Biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã thi hành thánh ý Chúa. Amen.

 

GOSPEL (Lk 5:1-11):

While the crowd was pressing in on Jesus and listening to the word of God,
he was standing by the Lake of Gennesaret.
He saw two boats there alongside the lake;
the fishermen had disembarked and were washing their nets.
Getting into one of the boats, the one belonging to Simon,
he asked him to put out a short distance from the shore.
Then he sat down and taught the crowds from the boat.
After he had finished speaking, he said to Simon,
“Put out into deep water and lower your nets for a catch.”
Simon said in reply,
“Master, we have worked hard all night and have caught nothing,
but at your command I will lower the nets.”
When they had done this, they caught a great number of fish
and their nets were tearing.
They signaled to their partners in the other boat
to come to help them. 
They came and filled both boats
so that the boats were in danger of sinking.

When Simon Peter saw this, he fell at the knees of Jesus and said,
“Depart from me, Lord, for I am a sinful man.”
For astonishment at the catch of fish they had made seized him
and all those with him,
and likewise James and John, the sons of Zebedee,
who were partners of Simon.
Jesus said to Simon, “Do not be afraid;
from now on you will be catching men.”
When they brought their boats to the shore,
they left everything and followed him.

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

2/2: Dâng Chúa Giêsu Vào Đền Thánh -

TIN MỪNG: Lc 2,22-40. 

“Chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa.”

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Mô-sê, cha mẹ Chúa Giê-su liền đem Người lên Giê-ru-sa-lem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con. Và đây ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-on, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Ít-ra-en. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giê-su đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: “Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Ít-ra-en dân Chúa”. Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Si-mê-on chúc lành cho hai ông bà và nói với Ma-ri-a mẹ Người rằng: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Ít-ra-en phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!” Lúc ấy, cũng có bà tiên tri An-na, con ông Pha-nu-en, thuộc chi họ A-sê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giê-su cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Ít-ra-en. Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Ga-li-lê-a, về thành mình là Na-da-rét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca, cụ già Si-me-on là người đầu tiên được xem thấy Chúa khi cha mẹ mang Người đến để gặp gỡ dân Người. Si-mê-on sẵn sàng nhắm mắt ra đi, vì ông đã được nhìn thấy ơn cứu độ bằng xương thịt như lời các ngôn sứ loan báo.

 

A. GỢI Ý:

1. Theo cách trình bày của Malakhi, Đức Chúa đi vào thánh điện của Người để thực hiện một cuộc thanh tẩy và tinh luyện giúp dân xứng đáng dâng lễ vật trước nhan Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người ra ô uế, dơ bẩn đang khi con người lại bất lực để hoán cải; thế nên việc thanh tẩy và tinh luyện của Thiên Chúa còn nguyên giá trị cho con người hôm nay. Vấn đề là mỗi người có dám để cho mình được thanh tẩy và tinh luyện hay không.

2. Đức Giêsu vừa là của lễ vừa là thượng tế dâng của lễ. Qua bí tích rửa tội, mỗi tín hữu cũng được thông phần vào ba chức vụ của Đức Giêsu: tư tế, ngôn sứ và vương đế. Can đảm đối diện trong tin tưởng và phó thác trước những đau khổ và thử thách trong cuộc sống, con người sẽ trở nên những của lễ có giá trị trước nhan thánh Chúa. Việc trung thành và sốt sắng với đời sống đạo đức-thiêng liêng giúp con người trở nên tư tế tuyệt hảo dâng những của lễ xứng đáng đẹp lòng Chúa.

3. Sự công chính và lòng sùng đạo của Simêon cũng như việc ăn chay, cầu nguyện thờ phượng Chúa của Anna đã làm cho họ trở nên những đối tượng mạc khải của Thiên Chúa về kế hoạch cứu độ con người. Cũng thế, một đời sống công chính, thánh thiện, chay tịnh và cầu nguyện sẽ giúp mỗi tín hữu, cách riêng các người sống đời thánh hiến, hiểu ra thánh ý của Chúa qua mỗi biến cố hằng ngày và họ được mời gọi cộng tác vào đó bằng chính đời sống thánh thiện của mình.

 

B. SUY NIỆM:

1. Thế giới hôm nay có nhiều kẻ theo ma quỷ để thù ghét Chúa và Hội Thánh. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và tìm mọi cách để thu hút, lôi cuốn đám đông đi theo họ chống lại Hội Thánh Công Giáo. Đặc biệt chống lại các vị chủ chăn là Giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ. Vậy các tín hữu chúng ta nên làm gì để bảo vệ Hội Thánh?

Hãy luôn nhớ chúng ta là con cái ánh sáng. Sự sáng của chúng ta phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc lành chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta trên trời.

Đừng chán nản nhụt chí, nhưng hãy làm hết khả năng của mình và cầu xin ơn Chúa giúp.

 

2. Đức Giê-su chính là ánh sáng thế gian. Hôm nay trước cửa Đền thờ, ông già Si-mê-on đã nói tiên tri về Hài nhi Giê-su như sau: “Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Ít-ra-en dân Chúa”.

Rồi trong cuộc sống công khai, chính Đức Giê-su cũng đã từng công bố: “Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn ngồi trong đêm tối, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự  sống”.

Hay như Tin Mừng Gio-an đã xác quyết: “Nơi Ngài có sự sống. Và sự sống là ánh sáng cho muôn dân. Ánh sáng đã chiếu soi trong u tối”.

 

3. Nếu Đức Giê-su đã là ánh sáng, thì Mẹ Ma-ri-a cũng chính là chiếc đèn, bởi vì Mẹ mang trong mình ánh sáng và từ đó tỏa lan khắp nơi. Hôm nay nơi đền thờ Giê-ru-sa-lem, Mẹ đã bồng ẵm trong vòng tay của mình Hài nhi Giê-su là ánh sáng muôn dân. Không phải Mẹ chỉ bồng ẵm Chúa trên đôi tay của mình, mà hơn thế nữa, tâm hồn Mẹ hoàn toàn được ánh sáng Chúa chiếu soi và biến đổi. Mẹ chính là tấm gương phản ảnh mọi nhân đức của Chúa Giê-su cho nhân loại chúng ta. Mẹ chính là người môn đệ đầu tiên đã qua đau khổ và thập giá để tiến đến vinh quang. Mẹ hoàn toàn tin tưởng và phó thác để trung thành theo thánh ý của Chúa.

 

4. Còn chúng ta thì sao?

- Chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng như Đức Giê-su, chúng ta cũng phải trở nên cây đèn cháy sáng như Đức Mẹ. Thực vậy, thánh Phao-lô đã khuyên nhủ các tín hữu như sau: “Trước kia anh em là tối tăm, nhưng hiện nay anh em là ánh sáng trong Đức Kitô”.

Đây cũng chính là điều Đức Giê-su muốn mỗi người tín hữu thực hiện khi phán: “Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi, không thể giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới gậm giường, nhưng sẽ đặt trên giá, để nó chiếu sáng cho mọi người trong nhà”.

- Là người Kitô hữu, chúng ta phải mang Đức Ki-tô, mang ánh sáng tin yêu của Người trong tâm hồn, rồi từ đó chiếu tỏa ánh sáng ấy cho những người chung quanh.

Là người tín hữu, chúng ta phải trở thành ngọn đèn cháy sáng, để những người đang còn ngồi trong tối tăm lầm lạc, nhờ chúng ta, sẽ tìm thấy nẻo chính đường ngay.

Muốn được như thế, thì tâm hồn và cuộc đời chúng ta phải thanh sạch giống như pha lê, để ánh sáng của Chúa có thể chiếu qua chúng ta đến với tha nhân.

- Thế nhưng có kẻ lại nghĩ rằng: “Ánh sáng của tôi quá yếu, làm sao ánh sáng ấy có thể chọc thủng được màn đêm tối tăm?”

Đừng nói mình không làm gì được. Trái lại, chúng ta hãy ý thức góp phần nhỏ bé của mình trong hoàn cảnh cụ thể mình đang sống và động viên nhiều người cùng làm như mình, thì chúng ta sẽ có thể đẩy lui được ảnh hưởng của các tội ác xấu xa.

Nếu hoạt động của đêm tối của ma quỷ và các thế lực thù địch là thù oán, tham vọng bất chính, là âm mưu… thì hoạt động của ánh sáng nơi chúng ta phải là lòng nhân hậu, khoan dung tha thứ, khiêm hạ phục vụ vô vụ lợi.

Tóm lại:  “Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Cha, xin cho con biết tuân giữ Luật Cha noi gương Thánh Gia. Luật cha chính là luật yêu thương. Con nhận ra rằng con chỉ chu toàn được Luật của Cha khi con thật sự thể hiện lòng mến Cha bằng việc yêu thương tha nhân. Vì thế, xin Cha cho con biết yêu thương từ trong cách suy nghĩ, đến nói năng và hành động, để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu của Cha trước mặt người đời, hầu cho họ nhìn thấy việc lành chúng con làm mà nhận biết tin thờ Cha và sau này được tham phần vào ơn cứu độ với chúng con. Amen.

 

GOSPEL (Lk 2:22-40):

When the days were completed for their purification
according to the law of Moses,
Mary and Joseph took Jesus up to Jerusalem
to present him to the Lord,
just as it is written in the law of the Lord,
Every male that opens the womb shall be consecrated to the Lord,
and to offer the sacrifice of
a pair of turtledoves or two young pigeons,
in accordance with the dictate in the law of the Lord. 

Now there was a man in Jerusalem whose name was Simeon.
This man was righteous and devout,
awaiting the consolation of Israel,
and the Holy Spirit was upon him.
It had been revealed to him by the Holy Spirit
that he should not see death
before he had seen the Christ of the Lord. 
He came in the Spirit into the temple;
and when the parents brought in the child Jesus
to perform the custom of the law in regard to him,
he took him into his arms and blessed God, saying:

    “Now, Master, you may let your servant go 
        in peace, according to your word,
    for my eyes have seen your salvation,
        which you prepared in the sight of all the peoples:
    a light for revelation to the Gentiles,
        and glory for your people Israel.”

The child’s father and mother were amazed at what was said about him;
and Simeon blessed them and said to Mary his mother,
“Behold, this child is destined
for the fall and rise of many in Israel,
and to be a sign that will be contradicted
-and you yourself a sword will pierce-
so that the thoughts of many hearts may be revealed.”
There was also a prophetess, Anna,
the daughter of Phanuel, of the tribe of Asher.
She was advanced in years,
having lived seven years with her husband after her marriage,
and then as a widow until she was eighty-four.
She never left the temple,
but worshiped night and day with fasting and prayer.
And coming forward at that very time,
she gave thanks to God and spoke about the child
to all who were awaiting the redemption of Jerusalem.

When they had fulfilled all the prescriptions
of the law of the Lord,
they returned to Galilee, to their own town of Nazareth.
The child grew and became strong, filled with wisdom;
and the favor of God was upon him.

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật III Thường Niên - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 1,1-4; 4,14-21. 

Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho chúng ta. Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài. Mong ngài sẽ nhận thức được rằng: giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc. Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và được mọi người tôn vinh. Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sa-bát, và đứng lên đọc Sách thánh. Họ trao cho Người cuốn sách Ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Tin Mừng hôm nay gồm có bài tựa mở đầu sách Tin Mừng thứ ba, nêu ra lý do khiến Lu-ca viết Tin Mừng dựa vào truyền thống và có tính khoa học, và việc Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng với chương trình hành động cụ thể. Đây là điều đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó khá lâu.

 

A. GỢI Ý:

1. Sau thời gian lưu đày, khi được trở lại mảnh đất của tổ tiên, dân Israel đã chăm chú nghe đọc Lề luật Môsê. Họ vừa xúc động vì lại được nghe Luật Chúa ngay trên quê hương, vừa bật khóc vì hối tiếc vì những lầm lỗi đã qua. Tuy vậy, họ được ông Esdra và các thầy Lêvi khích lệ hãy vui lên vì đó là ngày thánh hiến cho Thiên Chúa. Bao lâu các Kitô hữu biết khát khao nghe lời Chúa, nhận thấy mình thiếu sót, bất toàn, tội lỗi khi đặt mình trước lời Người, và để lời Chúa thanh tẩy và thánh hiến tâm hồn, thì đó thật sự là ngày của niềm vui, niềm vui vì được lời Người đổi mới.

2. Qua hình ảnh các bộ phận trong cơ thể, tuy khác nhau về cấu tạo, kích thước, chức năng, nhưng được liên kết và phối hợp nhịp nhàng với nhau để tạo nên một cơ thể thống nhất, thánh Phaolô muốn nói về sự liên kết cần có giữa các thành phần trong Hội thánh. Nhờ cùng chịu một phép rửa của cùng một Thần Khí nên các thành phần trong Hội thánh, dù được trao những công việc khác nhau tuỳ ân sủng ban cho, nhưng được hiệp nhất với nhau thành một thân thể duy nhất. Lời giáo huấn xưa kia của thánh Phaolô cho các tín hữu Côrintô để hàn gắn sự chia rẽ trong cộng đoàn vẫn là lời giáo huấn có giá trị cho bất kỳ cộng đoàn Kitô hữu nào thời nay. Bao lâu các thành phần trong Hội thánh chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, nhờ mối giây liên kết của Thánh Thần, thì mới tạo nên sức mạnh của sự hiệp nhất trong việc làm chứng cho Tin mừng.

3. Khi tuyên bố rằng “hôm nay” lời ngôn sứ Isaia đã nên ứng nghiệm nơi cuộc đời và sứ mạng của mình, Chúa Giêsu vạch ra một chương trình hành động cho sứ mạng ngôn sứ của Người. Đó là sứ mạng công bố và hiện thực hoá tin mừng giải thoát cho những người thấp kém nhất trong xã hội: những người nghèo khó, những kẻ bệnh tật, và bị giam cầm. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là thời kỳ hồng ân cho nhân loại. Các Kitô hữu cũng được mời gọi tiếp nối chương trình hành động của Chúa Giêsu, để hiện thực hoá sứ điệp tin mừng cho con người trong thế giới “hôm nay”. Tất cả những việc làm để nâng đỡ người nghèo, quan tâm chăm sóc những người bệnh tật về cả thể xác lẫn tinh thần, đem lại sự ủi an cho những người cô đơn, thua thiệt trong xã hội, khoan dung với những kẻ lầm lỡ… đều là những hành động thiết thực để những “năm hồng ân” tiếp tục được lan toả cho con người “hôm nay”.

 

B. SUY NIỆM:

1. Đức Giê-su công bố Tin Mừng về sứ vụ Thiên Sai:

Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ khắp miền Ga-li-lê, danh tiếng Đức Giê-su đã lan truyền khắp nơi, Người trở về thăm quê hương Na-da-rét. Vào ngày sa-bat, Người đến hội đường cầu nguyện theo thông lệ, viên trưởng hội đường đưa cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra ngay đọan nói về sứ vụ của Đấng Thiên Sai như sau: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau đó gấp sách lại, Người ngồi xuống và tuyên bố: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,18-19).

 

2. Đừng quên người nghèo:

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô thường nhắc nhở các tín hữu “đừng quên người nghèo”, bằng những việc làm cụ thể như sau:

- Là cố gắng giúp người nghèo cách tế nhị và quảng đại, tùy theo khả năng của mình.

- Là gần gũi với những trẻ em nghèo, những người già yếu, bệnh tật, những cô gái lỡ lầm, những người bị xã hội khinh thường.

- Là có một lối sống đơn giản, không xa cách người nghèo. Điều này không cấm chúng ta sử dụng các phương tiện hiện đại, nhưng tránh tiêu xài xa hoa lãng phí.

- Là cố gắng dạy đạo lý cách đơn sơ dễ hiểu cho mọi người, nhất là những người nghèo ít học.

- Là luôn lắng nghe những lời kêu cứu của những bệnh nhân đau liệt và thân yếu thế cô.

- Là tìm hiểu lý do tại sao nhiều người bỏ đạo, rồi dùng tình thương giúp họ quay về với Chúa.

- Là ân cần tiếp xúc với những người tội lỗi, nghèo khó, để giúp họ làm lại cuộc đời.

- Là yêu thương người nghèo theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su trong Tin Mừng. “Đừng quên người nghèo” là một lựa chọn vừa mang tính thần học lại vừa mang tính tiên tri. Có thể tính tiên tri vượt nổi hơn. Các vị mục tử nơi nào biết quan tâm đến người nghèo thì nền tảng đạo đức nơi đó sẽ ngày càng phát triển vững mạnh. Còn các vị mục tử ở nơi nào bỏ quên người nghèo thì nền tảng đạo đức ở nơi đó sẽ ngày một biến chất và tiến đến chỗ bị hủy diệt. Đó chính là một lời tiên báo mà chúng ta hôm nay không nên coi thường.

 

3. Thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng cho người nghèo:

Loan báo Tin Mừng cho người nghèo cụ thể là gì?

- Là cho những kẻ đang bị giam cầm trong lao tù biết họ sắp được tha, cho người đang làm nô lệ cho các thói hư tật xấu biết họ sắp được ơn giải thoát.

- Là góp phần chữa lành những người mù về thể xác được sáng mắt, đang lầm lạc về đức tin sớm thoát vòng u mê tối tăm, khai mở Năm Toàn Xá ban ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Hôm nay mỗi Ki-tô hữu chúng ta có sứ vụ tiếp nối công việc của Đức Giê-su bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ những người đau khổ về thể xác cũng như tinh thần, an ủi những người cô thế cô thân, xoa dịu chữa lành các vết thương, loại trừ sợ hãi, giải thoát những ai đang bị áp bức... Mỗi tín hữu chúng ta cần thi hành sứ vụ đã được Đức Giê-su trao phó, là góp phần làm cho sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a sớm được thực hiện, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa và tích cực góp phần làm cho Nước Trời mau đến, bắt đầu từ trong gia đình, khu xóm, giáo xứ rồi đến môi trường xã hội chúng ta đang sống.

 

4. Làm chứng cho Chúa bằng lối sống yêu thương cụ thể: quảng đại chia sẻ và khiêm nhường phục vụ:

Là Ki-tô hữu, chúng ta phải trở thành cánh tay nối dài của Đức Giê-su. Mỗi người chúng ta đều được Chúa mời gọi cộng tác để làm bùng lên ngọn lửa tin yêu mà Người đã đem xuống trần gian, bằng việc thực thi giới luật yêu thương. Đó chính là con đường nên thánh, là chìa khóa mở cửa thiên đàng cho chúng ta. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nói: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy là  những thầy dạy này cũng là những chứng nhân”. Thực vậy, lời giảng suông thường khó có thể thuyết phục được người khác, mà còn phải kèm theo gương sáng nữa, như người ta thường nói: “Trăm nghe không bằng một thấy”. Lời giảng mà thiếu gương sáng sẽ trở thành vô ích và có khi phản tác dụng vì làm cho người ta ghét đạo Chúa hơn. Các tín hữu cần thực hành theo lời khuyên được chủ tế đọc trong lễ phong chức linh mục như sau: “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”. Cần áp dụng lời Chúa khi suy nghĩ, nói năng và ứng xử giữa đời thường.

Mỗi người chúng ta cần sống hiệp nhất yêu thương noi gương các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn sống hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng…Tất cả đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con đón nhận được ơn Thánh Thần để sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân: nở nụ cười thân thiện với một người chưa quen, dấn thân phục vụ dân nghèo ở các vùng sâu vùng xa... Xin cho môi trường chúng con đang sống không còn đau khổ, không còn nước mắt và thù hận, nhưng chỉ còn tình thương thể hiện qua việc mọi người biết quan tâm chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, cùng nhau kiến tạo Trời Mới Đất Mới theo thánh ý Chúa (x. Kh 21,1.4). Amen.

 

GOSPEL (Lc 1:1-4, 4:14-21):

Since many have undertaken to compile a narrative of the events
that have been fulfilled among us,
just as those who were eyewitnesses from the beginning
and ministers of the word have handed them down to us,
I too have decided,
after investigating everything accurately anew,
to write it down in an orderly sequence for you,
most excellent Theophilus, 
so that you may realize the certainty of the teachings
you have received.
Jesus returned to Galilee in the power of the Spirit,
and news of him spread throughout the whole region.
He taught in their synagogues and was praised by all.
He came to Nazareth, where he had grown up,
and went according to his custom 
into the synagogue on the sabbath day.
He stood up to read and was handed a scroll of the prophet Isaiah.
He unrolled the scroll and found the passage where it was written:
        The Spirit of the Lord is upon me,
               because he has anointed me 
               to bring glad tidings to the poor.

       He has sent me to proclaim liberty to captives
             and recovery of sight to the blind,
             to let the oppressed go free,
             and to proclaim a year acceptable to the Lord.
Rolling up the scroll, he handed it back to the attendant and sat down,
and the eyes of all in the synagogue looked intently at him.
He said to them,
“Today this Scripture passage is fulfilled in your hearing.”

The Gospel of the Lord’

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Nhật II Thường Niên - Năm C -

TIN MỪNG: Ga 2,1-11.

Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê.

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Gio-an:

Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới, có thân mẫu Đức  Giê-su. Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. Đức Giê-su đáp: “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con? Giờ của Con chưa đến. Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giê-su bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi” và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ”. Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Đức Giê-su và các môn đệ đã cùng với Mẹ Ma-ri-a đến tham dự một bữa tiệc cưới tại thành Ca-na miền Ga-li-lê. Bữa tiệc mới được nửa chừng thì rượu sắp hết. Mặc dù chưa tới Giờ hành động, nhưng do lời Mẹ Ma-ri-a cầu bầu mà Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon. Qua dấu lạ cảm thông và giàu lòng thương xót này mà các môn đệ của Đức Giê-su đã tin Người thực là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.

 

A. GỢI Ý:

1. Không phải do bởi sự tín trung, hay bởi sáng kiến của dân Do Thái mà Thiên Chúa thiết lập giao ước Phu Thê với con người. Nhưng đây là do bởi tình yêu nhưng không, lòng quảng đại của Thiên Chúa cũng như từ ý định yêu thương của Người. Người muốn đến với chúng ta bằng một giao kết tình yêu hôn nhân, không phải để ràng buộc chúng ta trong bộ khung luật lệ, nhưng chính yếu là để yêu và được yêu nhiều hơn trong một bộ khung mới là tình yêu. Tôi cảm nghiệm điều gì trước mối tình của Thiên Chúa?

2. Đã có một thời trong Giáo hội, các ơn ban được xem như chỉ dành riêng cho một số người, một số phẩm trật nhất định. Đoạn trích thư Côrintô đã khẳng định cho chúng ta điều ngược lại. Tất cả mọi người họp thành một cộng đoàn, một thân thể, một Giáo hội là Hiền thê của Chúa. Vì thế mọi chi thể đều lãnh nhận được những ơn ban từ Thiên Chúa, tuy có khác nhau trong vai trò của từng người. Vậy với tôi, đâu là những ơn ban mà Thiên Chúa đã yêu thương dành cho tôi? Đâu là những ơn ban mà Thiên Chúa đã yêu thương dành cho những người anh chị em của tôi?

3. Nhờ rượu mới, nhờ sự hiện diện của Đức Maria, và nhất là nhờ Đức Giêsu, bữa tiệc cưới con người, từ sự u sầu vì hết rượu và có nguy cơ thiếu vắng niềm vui, giờ đã trở thành bữa tiệc đầy niềm vui hoan lạc. Vậy trong năm đồng hành với những gia đình gặp khó khăn, hình ảnh biểu trưng của tiệc cưới Cana có thể là một ý hướng mục vụ cho mỗi người chúng ta?

 

B. SUY NIỆM:

1. Vững tin vào Chúa:

Khi biết tiệc cưới nửa chừng sắp bị hết rượu, Mẹ Ma-ri-a đã nói với Chúa Giê-su: “Họ hết rượu rồi”. Dù nghe Chúa trả lời: “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con? Giờ Con chưa đến”, nhưng Mẹ Ma-ri-a vẫn vững tin vào tình thương của Chúa nên mạnh dạn nói với những người giúp việc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Ngày nay, Mẹ cũng nói với Chúa: “Họ hết rượu rồi” để làm cho tình yêu của nhiều đôi vợ chồng đang bị nhạt phai được nồng thắm lại; Để bao gia đình đang thiếu vắng hạnh phúc được trên thuận dưới hòa; Để bao tâm hồn đang bị chao đảo được lấy lại được niềm tin yêu vào Chúa.

Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi tiếng đồng hồ lại có cả trăm đôi vợ chồng đưa nhau ra tòa xin ly hôn. Con số các đôi vợ chồng ly hôn lại còn tăng mạnh hơn tới 50% tại các nước phương Tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng kết hôn, thì có một cặp bị thất bại chỉ sau một thời gian chung sống.

Nếu ngày xưa Chúa Giê-su đã biến Luật Mô-sê đã bị nhạt như nước lã, trở thành Tin Mừng yêu thương thắm đỏ như rượu nồng, thì ngày nay, Người cũng muốn các gia đình chúng ta biến đổi cuộc sống chung lạt lẽo vô vị trở nên hạnh phúc chứa chan tình “mến Chúa, yêu người”. Nhất là nếu chúng ta biết tin cậy cầu xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa Giê-su cho gia đình chúng ta.

 

2. Học sống Lời Chúa:

Cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta hôm nay cũng không thiếu những sự cố bất ngờ. Tuy nhiên, nếu biết tin vào tình thương cầu bầu của Mẹ Ma-ri-a thì chắc chúng ta sẽ vượt qua được mọi khó khăn, với điều kiện làm theo Lời Chúa như Mẹ dạy: “Giê-su bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).

Mỗi gia đình tín hữu hãy mời Chúa và Mẹ đến nhà bằng việc lập bàn thờ Chúa tại phòng khách và tổ chức đọc kinh tối gia đình hằng ngày hay ít nhất hằng tuần. Trong giờ kinh tối, các thành viên cùng nghe Lời Chúa và cầu nguyện cho nhau, luôn ứng xử với nhau cách lịch sự tế nhị và sẵn sàng cảm thông tha thứ lỗi lầm cho nhau như lời thánh Phao-lô: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Col 3,12-13).

 

3. Hãy mời Chúa và Mẹ đến nhà:

Trong Tin mừng, những ai đón Đức Giê-su đến nhà đều được Người ban ơn lành. Chẳng hạn:

- Si-mon đón Đức Giê-su đến nhà và Người đã cho nhạc mẫu của ông được khỏi bệnh (x. Mt 1,29.31);

- Người cũng đến nhà ông Giai-a và đã cho con gái ông mới chết được sống lại (x. Mc 5,22.38-43);

- Người đến nhà viên thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu dự tiệc và đã chữa lành một bệnh nhân bị bệnh phù thũng (x. Lc 14,1-4);

- Người cũng đã đến ở trọ nhà của viên trưởng thu thuế Gia-kêu và đã biến ông từ một kẻ tham lam thành người lương thiện, trở lại làm con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 19,8-10);

- Người đã vào ở trọ nhà hai môn đệ ở làng Em-mau, và qua việc “bẻ bánh” trong bữa ăn, hai ông đã nhận ra Người từ cõi chết sống lại (x. Lc 24,13-32)...

Tin mừng hôm nay cũng cho thấy Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đã đến dự tiệc cưới tại thành Ca-na và nhờ lời Mẹ cầu bầu, Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên là biến nước lã thành rượu ngon giúp cho đôi tân hôn. Nhờ chứng kiến phép là đầu tiên này, các môn đệ đã tin Thầy mình chính là Đấng Thiên Sai.

 

4. “Này, Ta đứng ngoài cửa mà gõ”:

Ðức Giê-su đã đến dự tiệc cưới tại thành Ca-na, để chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn. Các đôi vợ chồng tín hữu đừng để Người đứng ngoài hạnh phúc của chúng ta. Nếu chúng ta vâng lời Người dạy là đổ nước tin yêu vào các chum rỗng là tâm hồn của  chúng ta, thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận được niềm vui ơn cứu độ do Người ban cho..

Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang đứng ngoài cửa linh hồn của nhiều người và gõ. Những ai mở cửa đón Người vào nhà, Người sẽ vào và dùng bữa tối với kẻ ấy, và kẻ ấy sẽ dùng bữa với Người (x Kh 3,20). Vậy chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng đón Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a vào nhà linh hồn mình, hầu nhận được ơn cứu độ của Người không? Chúng ta có sẵn lòng cảm thông với các gia đình bất hạnh gần bên và giúp họ thêm lòng tin yêu Chúa để vượt qua hoàn cảnh khó khăn không?

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến chúc phúc cho gia đình chúng con. Ước chi cánh cửa nhà chúng con luôn rộng mở để tiếp đón những kẻ không nhà. Xin chúc lành cho ngôi nhà của chúng con được luôn có Chúa hiện diện, qua việc trưng bày các tượng ảnh của Chúa và Mẹ Ma-ri-a trên bàn thờ gia đình. Nhất là qua cách ứng xử lịch sự yêu thương giữa các thành viên trong gia đình. Xin cho chúng con biết hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a để mở tai lắng nghe Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình và quyết tâm thực thi Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.

 

GOSPEL (Ga 2:1-11):

There was a wedding at Cana in Galilee,
and the mother of Jesus was there.
Jesus and his disciples were also invited to the wedding.
When the wine ran short,
the mother of Jesus said to him,
“They have no wine.”
And Jesus said to her,
“Woman, how does your concern affect me?
My hour has not yet come.”
His mother said to the servers,
“Do whatever he tells you.”
Now there were six stone water jars there for Jewish ceremonial washings,
each holding twenty to thirty gallons.
Jesus told them,
“Fill the jars with water.”
So they filled them to the brim.
Then he told them,
“Draw some out now and take it to the headwaiter.”
So they took it. 
And when the headwaiter tasted the water that had become wine,
without knowing where it came from

-although the servers who had drawn the water knew-,
the headwaiter called the bridegroom and said to him,
“Everyone serves good wine first,
and then when people have drunk freely, an inferior one;
but you have kept the good wine until now.”
Jesus did this as the beginning of his signs at Cana in Galilee
and so revealed his glory,
and his disciples began to believe in him.

The Gospel of the Lord

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa - Năm C -

TIN MỪNG: Lc 3,15-16.21-22. 

“Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con.”

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Lu-ca:

Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gio-an: Biết đâu ông chẳng phải là Đấng Mê-si-a! Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa”. Khi toàn dân chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa. Sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.

Đó là Lời Chúa.

 

I. GỢI Ý & SUY NIỆM:

Bài Tin mừng hôm nay được chia làm hai phần:

- Trong phần đầu: dân chúng thắc mắc và nghĩ Gio-an có lẽ là Đấng Mê-si-a. Nhưng ông đã khiêm tốn phủ nhận điều này và còn giúp họ phân biệt giữa phép rửa bằng nước sông do ông làm khác với phép rửa trong Thánh Thần và Lửa do Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện.

- Trong phần hai: Khi Đức Giê-su vừa chịu phép rửa do Gio-an thực hiện thì một cuộc Thần hiện đã xảy ra:  Thánh Thần ngự xuống trên Người như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha từ trời giới thiệu Đức Giê-su chính là Người Con độc nhất được sinh ra trước mọi thời gian và được Chúa Cha rất mực yêu quý.

 

A. GỢI Ý:

1. Người Tôi Trung là người được Thiên Chúa tuyển chọn, ban thần khí và sai đi “làm sáng tỏ công lý” của Thiên Chúa. Với bản chất hiền lành và đầy lòng thương, Người Tôi Trung đem lại ánh sáng cho người mù, ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm. Ơn gọi, sứ mạng và phẩm chất của Người Tôi Trung được hoàn tất trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Tôi có sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để trở thành tôi trung của Ngài?

2. Thánh Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa “dùng quyền năng và Thánh Thần” mà xức dầu tấn phong để mang “Tin Mừng bình an” không chỉ cho dân Israel mà còn cho dân ngoại nữa. Qua Bí tích Rửa tội, tôi cũng được xức dầu để thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng cho mọi người. Tôi có ý thức về sứ mạng truyền giáo của mình? Tôi có sẵn sàng đến với dân ngoại để loan báo Tin Mừng cho họ?

3. Qua việc lãnh nhận phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu khai mạc sứ vụ công khai của Đấng Mêsia mà dân chúng đang mong đợi. Được Thánh Thần chứng thực và được Chúa Cha tôn vinh là “Con yêu dấu”, Chúa Giêsu đến làm phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”, nghĩa là thanh luyện tâm hồn con người và trao cho họ ơn Thánh Thần để chia sẻ sứ mạng với Người. Tôi có ý thức về sức mạnh của Chúa Thánh Thần trong đời sống và sứ mạng của một Kitô hữu?

 

B. SUY NIỆM:

1. Phân biệt hai loại phép rửa:

Gio-an Tẩy Giả đã phân biệt hai loại phép rửa với dân chúng Do Thái như sau: “Tôi rửa anh chị em trong nước, nhưng có Đấng cao trọng hơn tôi đang đến sau tôi, nhưng Người có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Người sẽ rửa anh chị em trong Thánh Thần và Lửa”. Gio-an cũng làm chứng về Ngôi vị Con Thiên Chúa của Đức Giê-su như sau: “Tôi không biết Người, nhưng  Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy và tôi làm chứng Người chính là Con Thiên Chúa…”

Phân biệt hai loại phép Rửa: Phép rửa của Gio-an Tẩy Giả, và phép rửa tội của Đức Giê-su như sau:

- Phép rửa sám hối bằng nước sông: Đức Giê-su đã đến xếp hàng xin Gio-an làm phép rửa bằng nước sông Gio-đan để được Thiên Chúa xác nhận là Đấng Thiên Sai, như Gio-an Tẩy Giả đã nói: “Để Ngài được tỏ mình ra với dân Ít-ra-en, nên tôi mới đến làm phép rửa trong nước”. Người chịu phép Rửa bằng nước được Gio-an dìm mình xuống dưới mặt nước bày tỏ lòng “sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4), và được gia nhập vào đoàn ngũ những người sẽ đón nhận ơn cứu độ của Đấng Thiên Sai sắp đến ban cho.

- Phép rửa tái sinh trong Chúa Thánh Thần: Đây là bí tích Rửa Tội nhân danh Chúa Ba Ngôi do Chúa Giê-su thiết lập. Trước khi lên trời, Chúa Giê-su Phục Sinh đã truyền cho các môn đệ cử hành bí tích rửa tội như sau: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…” (Mt 28,18-19). Phép rửa tội của Chúa Giê-su ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ bằng sự chết và phục sinh của Người như Người đã nói trước cuộc khổ nạn: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12,50). Những ai chịu phép rửa tội do Đức Giê-su thiết lập sẽ nhận được Thần Khí tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi, sẽ được Thiên Chúa ban tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).

 

2. Phép rửa tội giúp loại trừ các thói hư thuộc thể:

Hôm nay Hội thánh cũng muốn nhắc lại những cam kết trong ngày chịu phép rửa tội. Qua nghi lễ thanh tẩy bằng nước, diễn tả mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su, Hội thánh nhắc nhở các tín hữu phải chết đi cho những gì thuộc về ma quỉ, thế gian cùng các đam mê tội lỗi bất chính để cùng Người sống lại một cuộc sống mới làm con Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần.

Chết đi cho các thói hư chính là lọai trừ óc bè phái cục bộ, gây chia rẽ nội bộ; thói tự cao tự đại cho mình là nhất và lên mặt kết án kẻ khác; thói tự ái cao không chấp nhận những góp ý phê bình của tha nhân đối với các sai sót khuyết điểm của mình. Chết đi cho những việc làm xấu xa như: tham ô hối lộ, ăn cắp của công, bóc lột người nghèo, giết người cướp của, chè chén say sưa, cờ gian bạc lận, gian tham tục tĩu, loại bỏ những ý nghĩ đen tối, những lời nói hành, “gắp lửa bỏ bàn tay người”, lên án bất công cho những kẻ mình không ưa, nói sai sự thật, thói ưa tọc mạch soi mói vào đời tư của người khác…

 

3. Phép rửa tái sinh ta làm con Thiên Chúa:

Ngày lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta ý thức và sống ơn gọi khi chịu phép rửa tội: Được biến hóa nên con của Thiên Chúa giống Đức Giê-su như Tin Mừng đã ghi nhận: “Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Như vậy, phép rửa tội không những là một lễ nghi gia nhập đạo, mà còn là khởi đầu của một cuộc sống mới làm con Thiên Chúa và sẽ kéo dài suốt cuộc đời người tín hữu. Chúng ta phải sống thế nào để Thiên Chúa có thể nhận chúng ta là con thảo như đã từng công nhận Đức Giê-su sau khi chịu phép Rửa của Gio-an: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).

Vậy thế nào là một “người con yêu dấu luôn làm Chúa Cha hài lòng? :

- Hiểu biết ý muốn của cha mình: Đức Giê-su luôn cầu nguyện kết hiệp với Cha,  hiểu biết thánh ý Cha và luôn làm theo ý Cha. Người cũng cho các môn đệ biết: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Sau bữa Tiệc Ly, Người đã cùng 3 môn đệ vào vườn Cây Dầu và cầu nguyện với Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).

- Chiếu ánh sáng đức tin bằng các việc lành: chúng ta phải chiếu ánh sáng của Chúa bằng việc thăm viếng để chia sẻ và phục vụ cụ thể như lời Chúa Giê-su phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).  Cần năng cầu nguyện với Chúa Cha với tâm tình con thơ phó thác như lời kinh Chúa Giê-su dạy: “Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời…”. Cuộc sống của mỗi tín hữu chúng ta phải biểu lộ cho lương dân nhận biết chúng ta thực là con Thiên Chúa.

 

4. Phép rửa tội giúp ta chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa:

Sau khi chịu phép Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta sẽ được thánh hóa nhờ Thần Khí của Chúa Ki-tô Phục Sinh. Từ đây chúng ta có bổn phận làm chứng cho Chúa Giê-su như sau:

- Làm chứng bằng một cuộc sống hiếu thảo luôn làm vui lòng Chúa Cha như Đức Giê-su (x Mt 3,17): Mỗi tín hữu cần năng kết hiệp bằng sự đọc kinh cầu nguyện sớm tối; Dành ra thời gian để đọc một đoạn Lời Chúa rồi suy niệm để tìm hiểu ý Chúa muốn cho mình phải làm gì và cầu xin Chúa giúp thực hành theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su (x Dt 10,9; Mt 26,39); Cần ý thức sứ vụ tích cực góp phần xây dựng môi trường mình đang sống trở nên “Trời Mới Đất Mới” (Kh 21,1-4), ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn…

- Làm chứng cho Đức Giê-su không phải lúc nào cũng nói về Chúa, nhưng là luôn sống đức tin bằng việc thực hành đức cậy  chiếu sáng đức mến qua cách ứng xử với tha nhân: Câu chuyện bé gái sắp bị mổ đã cầu nguyện với Thiên Chúa, đã có sức lay động đức tin chai đá nguội lạnh của viên bác sĩ giải phẫu cho em, ông này đã bỏ cầu nguyện nhiều năm.

- Làm chứng bằng việc quyết tâm loại bỏ “con người thuộc thể” bằng cách xin ơn Thánh Thần để luôn theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su như thánh Phao-lô đã viết: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 1-2).

- Làm chứng bằng việc chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, nghĩa là làm cho “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10). Làm chứng bằng lời nói và qua việc làm chia sẻ quảng đại và khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật hoặc bị bỏ rơi… Nhờ đó anh em lương dân sẽ dễ nhận biết tin yêu Chúa như Đức Giê-su đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

 

II. CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con học tập nơi Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình để tu sửa đời sống. Xin cho chúng con tránh tìm cách nổi trội hơn anh em nhưng luôn chọn phần nhỏ hơn anh em về quyền lợi địa vị, nhưng phần lớn hơn anh em về trách nhiệm phục vụ. Xin cho chúng con luôn biết ăn nói khiêm tốn nhỏ nhẹ, tránh la mắng to tiếng với người dưới, cho chúng con biết nói ít làm nhiều như lời Gio-an Tẩy Giả nói với môn đồ của ông: “Người cần phải lớn lên còn tôi phải lu mờ đi”... Nhờ đó, “hữu xạ tự nhiên hương” qua chúng con, anh em lương dân sẽ nhận biết yêu mến Chúa để cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ trong đại gia đình Hội Thánh với chúng con. Amen.

 

GOSPEL (Lk 3:15-16, 21-22):

The people were filled with expectation,
and all were asking in their hearts
whether John might be the Christ.
John answered them all, saying, 
“I am baptizing you with water,
but one mightier than I is coming.
I am not worthy to loosen the thongs of his sandals.
He will baptize you with the Holy Spirit and fire.”
After all the people had been baptized 
and Jesus also had been baptized and was praying, 
heaven was opened and the Holy Spirit descended upon him
in bodily form like a dove. 
And a voice came from heaven, 
“You are my beloved Son;
with you I am well pleased.”

 

Ban Mục Vụ Phụng Tự

Lm. Đan Vinh

 

CÂU CHUYỆN HÀNG TUẦN

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CÁM ƠN MẸ ĐÃ SINH CON RA   

Sinh ra trong cuộc đời có nhiều điều chúng ta cần phải cám ơn. Cám ơn Thượng Đế đã cho ta làm người. Cám ơn mẹ cha đã đón nhận chúng ta. Cám ơn cuộc đời đã cho ta niềm vui. Nhưng, xem ra chúng ta ít cám ơn về món quà sự sống mà Thượng Đế và mẹ cha đã ban tặng cho chúng ta. Có mấy ai đã một lần cám ơn mẹ cha đã sinh ra chúng ta?

Có một người con gọi về cho mẹ:

– Alô, Mẹ đó ạ?

– Ừ, C đó hả?

– Dạ…

– Có chuyện gì không con?

– …Dạ, không Mẹ…hôm nay sinh nhật con…

– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.

– Không sao đâu Mẹ ạ. Con…con chỉ muốn nói với Mẹ rằng…hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.

Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ. Mẹ đã cho chúng ta một ngày sinh nhật thật tuyệt vời bên lòng mẹ, với tiếng khóc chào đời trong niềm vui của mọi người. Mẹ đã tặng chúng ta sự sống, tình yêu, lòng quảng đại đón nhận chúng ta làm con của mẹ. Có biết bao đứa trẻ bất hạnh đã bị mẹ từ chối cho sinh ra. Có biết bao đứa trẻ ao ước được mừng một lần sinh nhật trong cuộc đời mà không có. Thế nên, ta được sinh ra, được mừng sinh nhật đầu đời là hạnh phúc to lớn mà chính mẹ tặng ban cho chúng ta.

Thế mà, chúng ta dường như chưa bao giờ cám ơn món quà của mẹ. Chúng ta cám ơn ai đó tặng ta con búp bê, cái khăn tay, cái móc khóa mà quên cám ơn mẹ đã tặng ta cả cuộc đời. Đôi khi còn đòi hỏi nơi mẹ điều này điều kia, vì tưởng rằng đó chỉ là bổn phận của mẹ phải làm cho con, mà  quên rằng có biết bao bà mẹ đã từ chối đón nhận con, từ chối hy sinh cho con.

Hôm nay lễ Mẹ Maria được sứ thần truyền tin. Phúc âm ghi lại hành trình làm mẹ của Mẹ Maria thật cao cả, tuyệt vời. Mẹ đón nhận làm Mẹ của Con Chúa Trời trong sự đơn sơ khiêm tốn. Mẹ đón nhận thiên chức làm mẹ trong cái nhìn của đức tin để vượt qua mọi sợ hãi mà sinh Con Chúa Trời làm người. Nếu không có lòng quảng đại Mẹ đã khước từ gánh nặng của bóng thập giá ngay từ lúc truyền tin. Nếu không có đức tin Mẹ sẽ không đủ can đảm đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt qua trí hiểu của con người. Mẹ Maria đã đón nhận mang trong mình một mầm sống trong niềm tín thác xin vâng.

Mẹ xin vâng dầu Mẹ chưa hiểu hết. Mẹ xin vâng dầu phải đối diện với nguy nan, vì sinh con mà không qua người đàn ông, chắc chắn theo luật Do Thái Mẹ phải chết... Thế nhưng, Mẹ vẫn tin vào quyền năng của Chúa sẽ bao phủ trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đón nhận tất cả với niềm tín thác nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.

Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ đã quảng đại đảm nhận vai trò làm Mẹ với Con Chúa Trời. Chúng con cũng cám ơn Mẹ đã quảng đại tiếp tục đón nhận chúng con làm con của Mẹ. Chúng con xin dâng hồn xác chúng con trong sự che chở, gìn giữ của Mẹ. Xin Mẹ xưa đã cưu mang, gìn giữ, nuôi nấng Con Chúa Trời thì xin Mẹ cũng che chở nâng đỡ từng cuộc đời chúng con. Và xin cho các bà mẹ trên thế gian biết vượt qua nỗi sợ hãi để sinh con ra trong cuộc đời. Xin đừng vì một chút sợ hãi của đói nghèo, của bệnh tật, của danh dự mà cướp đi sự sống của các thai nhi. Xin cho các bà mẹ luôn giầu lòng quảng đại để chấp nhận mọi đứa con theo thánh ý Chúa. Amen.

 

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

TÌNH YÊU ANH NGẮN THẾ THÔI SAO?

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một cái nhìn về tội lỗi. Con người thường hay đánh đồng tội và họa. Cứ ai gặp họa người ấy có tội. Họa càng nhiều tội càng lớn. Tội lỗi không làm nên phúc, họa của con người. Phúc, họa đôi khi đến từ chính bản thân họ nhưng đôi khi đến từ ngoài ta. Chính mình có thể làm nên những điều phúc lành, bởi cây tốt thì sinh trái tốt. Chính bản thân có thể làm nên những điều họa bởi gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Tuy nhiên, đôi khi phúc, họa lại từ trên trời rơi xuống, chả phải bởi ta cũng chả phải bởi trời mà bởi lẽ tất nhiên của cuộc sống.

Cuộc sống là vậy, muôn màu để rèn luyện, để cho ta những bài học làm người. Bài học nào cũng phải trả giá. Có bài học trả bằng tiền, có bài học trả bằng máu, có bài học trả bằng nước mắt. Cho dù là trả bằng gì cũng phải mất mát mới có được. Vậy nên, ta phải luôn trân trọng những bài học của cuộc sống là vậy. Trân trọng không phải bởi vì những thứ ta đã bị mất đi, nhưng trân trọng là vì nó dạy ta làm người tử tế.

Đối diện với những đau khổ, bất hạnh của con người ta thường hay đoán xét, lỗi người này tội người kia. Đoán xét là đã không có cái nhìn cảm thấu, sẻ chia. Nhưng nhận định cái đúng cái sai để trở thành kinh nghiệm cho bản thân thì không mấy ai thực hiện.

Đoán xét để làm gì bởi nay người mai ta, hãy rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân có phải tốt hơn không nào. Đừng biến đổi mọi thứ trong cuộc sống theo cái nhìn của bản thân mà hãy mở lòng đón nhận nó như là một biến cố, một sự kiện để ta sống tốt hơn.

“Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.” (Lc 13, 5) Không phải thế đâu, thế nên đừng vội nói, đừng vội kết án mà hãy thấu hiểu và cảm nhận, đặt cảm xúc của mình vào từng hoàn cảnh, từng biến cố của cuộc sống mà rút ra bài học. Đừng đoán xét ai cả để mình khỏi bị đoán xét, bởi sự thật không phải thế đâu. Có thể lúc này người ta tội lỗi nhưng ngày mai họ đã hết tội rồi. Thế nên vội vàng đoán xét, kết án và loại trừ có phải là nông nổi nhất thời quá hay không.Cái lỗi lớn nhất của con người là nhanh kết án và chậm thứ tha. Cho dù hành động xấu thì cũng vẫn phải được thấu hiểu và tha thứ. Kết án không phải là cùng đích của cuộc sống này. Làm người không phải để kết án nhưng chính là để thấu hiểu, cảm thông. Cho người khác cơ hội không phải là dung túng cho kẻ xấu nhưng chính là biểu hiện của trưởng thành nhân cách. Cái xấu phải trả giá bằng điều xấu thì chả khác nào tất cả đều xấu. Nhưng cho người lỡ lầm cơ hội để khuất phục điều ác chính là một hành động nhân văn. Phúc nở hoa trên họa là như vậy. Nếu tự nhiên không có được, thì chính mình, mỗi chúng ta hãy làm cho phúc được nở hoa trên tội.

Chả phải tự nhiên hôm nay tôi có thể cầm bút viết những điều ấy, chắc chắn đây không phải những điều sáo rỗng vì lòng không có tay sao cầm bút. Thế nhưng đó là cả một hành trình dài với những bài học kinh nghiệm dày đặc đẫm máu và nước mắt. Có những bài học phải trả bằng giá rất đắng, rất chát nhưng thôi thì cuộc sống là vậy. Nếu như mình cứ mãi nuôi hận thù thì chả khác nào còn xấu hơn họ. Buông bỏ là một chọn lựa tốt lành cho những ai muốn nên hoàn thiện. Buông bỏ mọi lỡ lầm của người khác, tha thứ cho cách họ đối xử với mình cũng là một hành động minh chứng tôi không phải như thế đâu.

Đôi khi chỉ vì vội vàng đoán xét mà tôi đã bỏ mất một người bạn đáng tin cậy. Đôi khi chỉ vì nông cạn nhất thời mà tôi vội vàng cắt đứt quan hệ với người tôi đáng trân trọng... Thế nên đừng bao giờ ghi dấu chấm hết với một người còn đang sống là như vậy. Hôm nay họ có thể như thế nhưng ngày mai họ sẽ không phải như vậy đâu. Tại sao chỉ vì một cảm xúc nhất thời mà dập tắt nguồn sống của cả một đời người. Khập khễnh, khiên cưỡng quá. Trái tim, nhận định, cảm xúc của anh ngắn ngủi đến thế thôi sao?! Tình yêu của anh chỉ được ngần ấy thôi sao?

Ai chưa đủ lớn người ấy vẫn là trẻ con. Người trưởng thành là người có đủ lòng nhân ái, sự bao dung. Hãy lấy ánh mắt của Thiên Chúa mà nhìn nhận cuộc đời và con người, đừng bao giờ dùng đôi mắt của chính mình mà nhìn nhân loại. Đôi mắt của mình tuy không cận, không viễn cũng không loạn, không lão nhưng chả thể nào nhìn thấu nỗi lòng của tha nhân đâu, tội nghiệp và oan uổng!

Kêu gọi cảm thông cho người xấu không phải cổ võ, tạo điều kiện để họ xấu hơn nhưng chính là một hành động nhân văn giúp người có lỗi nhận ra sai lầm của mình và cho họ một cơ hội để thay đổi. Đừng vội nhìn người khác phải trả giá hay gặp hoạn nạn làm vui mừng nhưng hãy lấy đó làm kinh nghiệm để bản thân đừng đi vào vết xe đã đổ, vết dầu đã loang, vệt máu đã chảy...

Cái thắng của sự thiện không phải là kẻ xấu phải chết, phải trả giá, nhưng cái thắng của sự thiện chính là cảm hóa được người xấu trở nên tốt hơn. Thế nên, đừng nhìn vào cái họa mà vui mừng hả hê nữa nhé... Hãy mở lòng để biến họa thành phúc có hơn không.

Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi. Không biết từ bao giờ con đã là kẻ tội lỗi. Nhưng hôm nay con lại là kẻ tội lỗi trưởng thành. Con đã biết nhìn nhận cuộc sống bằng đôi mắt nhân văn hơn không phải vì con tốt lành cho bằng vì con được đối xử không tốt lành. Biến họa thành phúc cũng chính là cách con học để tồn tại, không chờ đợi, không trông mong ai đó, cuộc đời nào đó, cuộc sống nào đó mang đến cho mình cho bằng chính bản thân phải học cách để tồn tại. Hôm nay Ngài đã dạy con cách nhìn nhận cuộc sống để thay đổi chính mình và để chính mình được cứu độ. Xin giúp con, kiên cường đứng vững cho dù trong họa hay trong phúc, chỉ là vì Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và cứu độ con.

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

THÁNH GIUSE – CON NGƯỜI CỦA HY VỌNG 

Một vị thánh âm thầm trong Giáo Hội, nhưng chính Ngài là nguồn hy vọng của mỗi cúng ta khi chúng ta đến với Ngài và nhất là khi cầu nguyện với Ngài đó là Thánh Cả Giuse. Dẫu không nhận Ngài là bổn mạng nhưng con luôn hướng lòng đến với Cha Thánh Giuse.

Mỗi người chúng ta khi sinh ra trong cuộc đời này đều mang trong mình một hành trình riêng, một câu chuyện riêng, với những niềm vui, nỗi buồn, những hy vọng và thử thách. Trong hành trình đó, có những lúc chúng ta cảm thấy mạnh mẽ, kiên cường, nhưng cũng không ít lần cảm thấy chán nản, mỏi mệt trước những nghịch cảnh. Và chính trong những lúc ấy, niềm hy vọng trở thành ánh sáng dẫn đường, giúp chúng ta đứng vững và bước tiếp.

Trong lịch sử Giáo hội, có biết bao mẫu gương của những con người sống niềm hy vọng kiên vững. Nhưng nếu phải kể đến một mẫu gương tiêu biểu, gần gũi và sống động nhất về một con người luôn tín thác và đặt trọn niềm hy vọng vào Thiên Chúa, thì đó chính là Thánh Giuse – người công chính, người cha nhân hậu, người bạn trung tín của Đức Maria, và là dưỡng phụ của Chúa Giêsu.

Thánh Giuse là một con người ít nói, không để lại lời nào trong Kinh Thánh, nhưng cuộc đời của Ngài là một bản trường ca về sự vâng phục và hy vọng. Ngài đã sống một cuộc đời đầy khó khăn, thử thách, nhưng chưa bao giờ để cho tuyệt vọng xâm chiếm tâm hồn. Chính niềm hy vọng vào Thiên Chúa đã giúp Ngài vượt qua tất cả, hoàn thành trọn vẹn sứ mạng cao cả của mình.

Trong năm thánh với chủ đề “Về Niềm Hy Vọng”, chúng ta cùng suy ngẫm về cuộc đời Thánh Giuse, để học hỏi nơi Ngài cách sống niềm hy vọng giữa những thử thách của cuộc đời.

Thánh Giuse – Người Sống Theo Ý Chúa Trong Hy Vọng: Khi nhắc đến Thánh Giuse, chúng ta nhớ ngay đến một con người luôn vâng phục thánh ý Chúa, ngay cả khi thánh ý ấy đi ngược lại với dự định và suy nghĩ của Ngài.

Là một người công chính, chắc chắn Thánh Giuse là một người có lòng yêu mến Thiên Chúa, luôn sống theo Luật Chúa và có những dự định tốt đẹp cho tương lai. Nhưng rồi một ngày, khi biết tin Đức Maria – vị hôn thê của mình mang thai mà chưa về chung sống với mình, chắc chắn Thánh Giuse đã đau khổ vô cùng. Ngài không hiểu chuyện gì đang xảy ra, không biết phải làm sao trước tình huống trớ trêu này. Theo luật Do Thái, Đức Maria có thể bị ném đá vì tội ngoại tình, nhưng Thánh Giuse không muốn điều đó xảy ra. Trong nỗi đau của mình, Thánh Giuse vẫn giữ một tâm hồn nhân hậu, muốn “kín đáo rút lui” để không làm tổn thương Đức Maria.

Nhưng rồi trong giấc mơ, Sứ Thần Chúa hiện ra và nói với Thánh Giuse: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20).

Nghe lời này, Thánh Giuse lập tức vâng phục, đón nhận Đức Maria về nhà mà không một lời thắc mắc hay đắn đo. Ngài đã không để lý trí của mình lấn át ý muốn của Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, dẫu rằng phía trước vẫn còn rất nhiều điều khó hiểu.

Hành động của Thánh Giuse là một bài học lớn cho chúng ta về niềm hy vọng. Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta cũng gặp phải những biến cố bất ngờ, những thử thách khiến chúng ta hoang mang, không biết phải làm gì. Nhưng nếu chúng ta biết noi gương Thánh Giuse, biết tin tưởng và đặt cuộc đời mình trong tay Chúa, thì chắc chắn Ngài sẽ dẫn chúng ta đi đúng con đường mà Ngài đã định sẵn.

Thánh Giuse – Người Trung Thành Trong Mọi Gian Nan: Cuộc đời của Thánh Giuse không chỉ có một thử thách, mà là một chuỗi những thử thách không ngừng.

- Khi Chúa Giêsu vừa chào đời, vua Hêrôđê đã lệnh giết tất cả các trẻ em dưới hai tuổi ở Bêlem. Một lần nữa, Sứ Thần Chúa báo mộng cho Thánh Giuse phải đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập.

- Hãy tưởng tượng hoàn cảnh của Thánh Giuse lúc bấy giờ: giữa đêm tối, phải vội vã lên đường, mang theo vợ con đến một vùng đất xa lạ, không người thân, không nhà cửa, không biết tương lai sẽ ra sao.

- Ở Ai Cập, cuộc sống tha hương chắc chắn không hề dễ dàng. Ngài phải lao động vất vả để nuôi sống gia đình, chịu đựng sự cô đơn, xa lạ nơi đất khách.

- Khi nhận được lệnh trở về, Ngài lại tiếp tục hành trình, lần này là về Nazareth – một làng quê nghèo. Ở đó, Ngài tiếp tục làm nghề thợ mộc, âm thầm chu toàn bổn phận của một người cha, một người chồng.

Qua tất cả những thử thách ấy, Thánh Giuse không một lời than trách, không một lần phản đối. Ngài cứ lặng lẽ thực thi ý Chúa với tất cả niềm tin tưởng và hy vọng. Bài Học Cho Chúng Ta. Cuộc đời Thánh Giuse dạy cho chúng ta nhiều bài học quý giá:

- Bài học về sự vâng phục: Khi gặp khó khăn, chúng ta thường muốn tìm cách thoát ra theo ý mình. Nhưng Thánh Giuse dạy chúng ta rằng, thay vì làm theo ý riêng, hãy tìm kiếm ý Chúa và sẵn sàng bước theo Ngài.

- Bài học về niềm tin: Thánh Giuse không hiểu hết mọi điều ngay lập tức, nhưng Ngài luôn tin rằng Chúa có kế hoạch tốt đẹp nhất cho cuộc đời mình.

- Bài học về sự hy vọng: Giữa những thử thách tưởng chừng như không lối thoát, Thánh Giuse vẫn giữ vững niềm hy vọng.

Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng có những khó khăn riêng: bệnh tật, thất nghiệp, cô đơn, bấp bênh trong cuộc sống. Đôi khi chúng ta cảm thấy tuyệt vọng, không biết bám víu vào đâu. Nhưng nếu chúng ta biết noi gương Thánh Giuse, biết đặt niềm hy vọng vào Chúa, thì chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Thánh Giuse đã có diễm phúc bế bồng và chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, còn chúng ta hôm nay cũng có thể gặp Chúa trong Bí Tích Thánh Thể. Hãy đến với Chúa, đặt trọn niềm hy vọng nơi Ngài, và chúng ta sẽ tìm thấy bình an thật sự.

Lạy Thánh Giuse, xin cầu bầu cho chúng con biết noi gương Ngài, biết tin tưởng và phó thác mọi sự trong tay Chúa, để dẫu cuộc đời có nhiều thử thách, chúng con vẫn giữ vững niềm hy vọng, và luôn bước đi trong ánh sáng của Thiên Chúa. Amen.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

HẠNH PHÚC KHÔNG PHẢI Ở TRÊN NÚI CAO 

Từ nhỏ mình đã có một giấc mơ về những vị vua tài đức, giàu có và quyền năng. Mình thích y phục trắng, đơn giản vì đó là màu tinh khiết và trắng trong. Mình thích vua, không phải vì lợi lộc vật chất cho bằng quyền năng. Mình có một khao khát vượt qua mọi đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, chết chóc… Mình khao khát có một vị vua tài đức có thể cứu mọi người như vậy.

Vị vua mình mong ước có lẽ chỉ có trong truyện cổ tích. Và hôm nay trong Tin mừng này, vị Vua ấy có thật. Chỉ có một vị Vua duy nhất cho mình điều mình khao khát. Ngài vừa tài, vừa đức mà không có một ai khác ngoài Ngài có thể hơn được: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.” (Lc 9, 29)

Mình khao khát được lãnh nhận những phép lạ không phải vì mình siêng ăn, lười làm cho bằng có những việc chỉ có phép lạ mới làm nên. Khao khát phép lạ không phải người hiếu kì cũng không phải người tham vọng cho bằng thể hiện sự giới hạn của chính bản thân họ.

Chỉ những người không cậy dựa vào tài sức của bản thân mới chờ mong phép lạ. Những ai tự cho mình tài giỏi, có khả năng thì chả bao giờ tin vào phép lạ nói gì chờ đợi chúng. Thế nhưng, không phải trong Kinh thánh, phép lạ xảy ra hằng ngày với mỗi chúng ta nhưng mấy ai nhận ra để mà biết ơn và trân trọng.

Cuộc sống là cả một chuỗi ngày cảm ơn. Cảm ơn Thiên Chúa đã cho ta sự sống và cứu độ ta. Cảm ơn tha nhân đã cho ta tình thương và lòng mến để chúng ta cùng hỗ trợ nhau vượt qua thách đố của cuộc đời. Nhưng sự thật thì có mấy ai trân trọng nó?

Như các thánh tông đồ hôm nay, mình cũng từng khao khát thời gian dừng lại mỗi khi có được những giây phút bình an và hạnh phúc. Khi tâm hồn cảm thấy đủ để hạnh phúc, người ta không muốn thời gian trôi qua nữa bởi sợ nó cuốn trôi thứ hạnh phúc mong manh ấy: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê, một cái cho ông Êlia.” (Lc 9, 33) Có lẽ thánh nhân quá xúc động và sung sướng trước vinh quang của Thầy mình, ông không muốn vinh quang ấy mất đi mà mãi mãi tồn tại nên muốn được ở mãi nơi này, trên ngọn núi cao.

Đó cũng chính là tâm trạng của mình. Không thiếu những lúc mình mong muốn thời gian dừng lại để hạnh phúc được ở lại. Thời gian thường kéo đi hạnh phúc, hạnh phúc thường mất đi với thời gian. Thế nên, người ta mong muốn thời gian dừng lại là vậy. Thế nhưng, nếu chỉ vì bản thân cảm thấy hạnh phúc mà muốn thời gian dừng lại thì sự sống không phát triển. Chả có sự sống nào nảy mầm trên dấu chấm hết cả. Chỉ có sự hy sinh, lòng quảng đại và tha thứ mới nảy sinh trên dấu chấm mà thôi.

Hãy quảng đại, mở lòng đón nhận sự sống mà Thiên Chúa trao ban và làm cho nó trổ sinh bông hạt. Đừng vì một chút hạnh phúc bé nhỏ của bản thân mà mong muốn hạnh phúc dừng lại cho dù đó là hạnh phúc chính đáng nhất. Thế nhưng, hãy tập sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa đó mới là cách sống khôn ngoan nhất. Đừng bao giờ lấy cảm xúc bản thân làm mục đích cuộc đời nhưng hãy lấy cảm xúc của Thiên Chúa làm lều trại cho tình yêu trú ngụ. Tập sống quên đi hạnh phúc bản thân để sống cho hạnh phúc của Thiên Chúa và tha nhân đó là cách sống vĩ đại nhất, đó là thời gian vĩ đại nhất, là vinh quang vĩ đại nhất.

Trước đây mình khao khát làm nên những điều vĩ đại cho thế giới bằng nhiệt huyết của tuổi trẻ, nhưng đến một lúc mình chỉ mong có được những giây phút mỏng manh, ngắn ngủi của hạnh phúc được dừng lại. Khi người ta mong hạnh phúc được dừng lại là người ta đã biết thế nào là đủ để không còn tham vọng tìm kiếm những thứ xa xỉ. Thế nhưng, nếu dừng lại để hưởng thụ thì không đủ mà hãy kiên cường bước tiếp để cho hạnh phúc ấy kéo dài mãi mãi.

Vâng, hãy sống cho một thứ hạnh phúc kéo dài mãi mãi chứ đừng vì một chút hào quang nhất thời để mà đánh mất nhiệt huyết của bản thân. Hãy can đảm đón nhận sự xoay vần của cuộc sống không phải vì hạnh phúc nhất thời của nó nhưng vì đó là ân huệ mà Thiên Chúa tặng ban. Khi biến hình trên núi, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài tận mắt chứng kiến vinh quang của Ngài mà vững tin để được sống hạnh phúc và đem hạnh phúc ấy đến với tha nhân chứ không chỉ là hạnh phúc cảm nhận của bản thân để rồi ích kỉ lưu giữ nó mãi mã iở trên núi cao…

Khi thời gian dừng lại là khi sự sống không tồn tại. Khi thời gian quay ngược về quá khứ là khi bạn đang ảo mộng. Hạnh phúc cũng vậy, hạnh phúc không tìm về quá khứ nên đừng cố chờ đợi người đã buông tay bỏ rơi bạn. Hạnh phúc cũng không nằm ở phía trước nên đừng cố chờ mong hão huyền. Hạnh phúc là ở giây phút hiện tại. Nếu có thể xây lều cho Thiên Chúa ngụ lại nhà mình, thì hãy xây cho Ngài ngôi lều chắc chắn, không phải ở trên núi cao, nhưng là ở bất cứ nơi nào bạn đi qua.

Lạy Chúa, con là cô gái của niềm tin. Con tin vào sự toàn thắng của sự thiện, con tin vào Đấng mà con tín thác. Chính Ngài đã dạy con phải kiên cường trước mọi thách đố của cuộc sống chỉ cần vững tin vào Con của Ngài. Hôm nay Người Con ấy biến hình trên núi, mang lại hạnh phúc cho những người chứng kiến và cũng là củng cố niềm tin cho con vào quyền năng của Đấng con tôn thờ. Xin giúp con can đảm đứng lên và bước đi, đừng dừng lại cũng đừng ngừng thở. Muốn được chữa lành thì phải rách nát. Xin Ngài băng bó và chữa lành trái tim đã bị thời gian làm cho vỡ nát. Xin Ngài cũng đừng để cho hạnh phúc dừng lại bởi con sẽ rất dễ tự mãn, ỷ lại. Xin hãy nắm tay dắt con đi, đi vào thế giới đầy mây đen dày đặc và can đảm biến đổi chúng trở nên những tia sáng bồng bềnh sưởi ấm trái tim muôn người bằng quảng đại và thứ tha, bằng niềm tin mãnh liệt vào Đấng mà hôm nay đã biến đổi hình dạng vì yêu con. Xin giúp con cũng biết can đảm biến đổi chính mình…

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CÓ MỘT THỨ TÌNH YÊU ĐẸP ĐẾN NỖI...

Mỗi năm, cứ đến mùa chay là lòng tôi lại rộn lên một cảm xúc lâng lâng khôn tả. Mùa chay thánh được đánh dấu từ nghi thức xức tro như là một gợi nhớ để người ta nhìn lại. Người trẻ hiếm khi nào biết dừng lại. Tuổi trẻ thường có xu hướng sống cuồng, sống vội. Người già ngược lại, luôn muốn thời gian trôi chậm chạp hầu níu giữ thanh xuân.

Có nhiều lí do để người ta sợ chết. Trước hết đó là sự mất đi tất cả. Sau nữa là sự phán xét. Người ta sợ đối diện với Đấng mà họ phải trả lẽ về tất cả mọi hành động, lời nói của mình.

Cuộc sống đầy cám dỗ, nếu không có cám dỗ thì không có cuộc sống. Cám dỗ có thể khiến người ta tốt hơn nhưng cũng có thể khiến người ta xấu đi. Ai chiến thắng, đó là người vĩ đại nhất.

Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Ma quỷ đã thách thức Ngài với đủ mọi chiêu trò về của ăn, về địa vị, về quyền lực... (x. Lc 4, 1-12) Thế nhưng, Ngài đã chiến thắng tất cả. Đơn giản vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng thánh, là Chúa toàn năng. Cái thắng luôn thuộc về sự thiện.

Thiên Chúa toàn thắng, nhưng còn chúng ta thì sao? Có lẽ đó là con đường gian nan nhất để hoàn thiện chính mình. Chiến thắng nào cũng không huy hoàng cho bằng chiến thắng chính bản thân. Bởi đau khổ hay hạnh phúc cũng đều bắt đầu từ chính ta. Nếu như bạn hạnh phúc vì người khác thì bạn chả khác nào con trẻ. Còn nếu như bạn hạnh phúc vì dư đầy thì bạn cũng chả khác nào trẻ con. Mọi thứ trần gian này đều là tạm bợ. Ngay cả tình yêu thương cũng chỉ là giới hạn mà thôi. Chả ai có thể yêu bạn vĩ đại như Thiên Chúa, cũng chả ai thật lòng với bạn ngoại trừ Ngài. Cha mẹ đôi khi còn khiến con cái tổn thương, vợ chồng đôi khi cũng khiến nhau rạn nứt... Đơn giản bởi tất cả chúng ta cũng chỉ là con người yếu đuối và mỏng dòn, mong manh và dễ vỡ.

Thế nhưng, những thất bại, lầm lỡ trong cuộc đời, chắc chắn sẽ khiến bạn trưởng thành hơn và giúp bạn khám phá ra được ý nghĩa của cuộc sống. Cuộc sống là vậy, không phải là để đau khổ nhưng chính là để tìm ra được ý nghĩa cuộc đời. Quan trọng không phải bạn chịu cám dỗ bao nhiêu, bạn chịu thử thách đến mức nào nhưng chính là bạn học được gì sau mỗi cám dỗ, lầm lỡ ấy.

Đừng nhìn vào quá khứ mà tủi nhục, xấu hổ hay hối hận. Quá khứ chính là bộ mặt thật của ta. Tương lai là hy vọng, là ẩn số. Hiện tại là cơ hội. Cơ hội để ta chọn lựa sống tốt hơn ngày hôm qua hay xấu đi hơn ngày hôm kia. Thế nên, đừng nhìn vào quá khứ mà đau khổ hay buồn bã hay tuyệt vọng. Cho dù nó có khiến bạn tổn thương, trả giá và mất mát đến dường nào cũng chỉ là bài học. Cho dù là bài học gì thì cũng hãy rút ra lời cảm ơn từ cuộc sống. Cảm ơn bạn đã giúp tôi kiên cường hơn. Cảm ơn bạn đã giúp tôi biết sống yêu thương hơn. Và cảm ơn anh đã giúp tôi biết sống thứ tha hơn...

Chỉ có những ai biết rút ra được bài học cảm ơn từ cuộc sống người ấy mới có khả năng viết lên niềm vui và hy vọng trong cuộc đời này. Đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh, cũng đừng oán giận bất cứ ai, đừng lệ thuộc quá nhiều vào họ. Hãy là chính mình, bước đi trong niềm tin và ánh sáng của ơn cứu độ. Thiên Chúa là Người duy nhất có khả năng chờ đợi bạn trở lại. Ngài nắm tay dắt bạn đi và chờ đợi bạn vấp ngã từ những bài học nhỏ bé nhất trong cuộc đời... bài học biết cười và biết khóc...

Ai làm người mà chả phải chịu cám dỗ, thế nhưng kẻ thắng người thua. Thua cũng không quan trọng, thắng cũng chả vội vui mừng. Thắng thua là chuyện nhỏ. Học được gì sau mỗi lần vấp ngã mới là việc lớn.

Bài học lớn nhất cuộc đời tôi đó chính là bài học tha thứ. Tha thứ quan trọng hơn cả tội lỗi. Tha thứ sẽ khiến cho người chết sống lại, người tuyệt vọng tìm được cứu cánh. Tha thứ mới là bản lĩnh. Đoán phạt là chuyện thường tình. Sự đoán phạt không bao giờ mang lại ơn cứu độ nhưng sự phục sinh luôn nở hoa trên sự tha thứ. Không phải vì đồng tiền bát gạo khiến người ta hồi sinh nhưng chính là sự tha thứ. Mặc dầu âm thầm, mặc dầu rất chậm, nhưng sức mạnh của nó có thể khiến bạn lên vĩ đại, bất diệt.

Đừng bao giờ đong đếm tình yêu trên đầu môi trót lưỡi, cũng đừng bao giờ lệ thuộc vào của cải, bạc tiền nhưng tình yêu đích thực dựa trên sự tha thứ. Đó là thứ tình yêu vĩ đại và cao thượng nhất, đẹp nhất, bất diệt nhất. Kẻ nói yêu bạn nhưng ghi nhớ tất cả mọi lỡ lầm, bất toàn của bạn là kẻ nói dối trắng trợn. Kẻ can đảm vứt bỏ bạn chỉ vì lỡ lầm của bạn là kẻ tiểu tử đáng khinh. Can đảm rời bỏ người luôn luôn yêu thương và trân trọng mình là kẻ tàn nhẫn đến dã man. Không thể oán trách họ, bởi họ chỉ được có thế. Không thể cay đắng họ, bởi tình yêu họ chỉ có vậy. Hãy tha thứ, để mình không phải vậy. Sự tha thứ chính là lời giải thích. Sự tha thứ chính là lời hùng biện có sức mạnh hồi sinh kì diệu. Có thể một năm, hai  năm, cũng có thể vài ngày, vài tháng, vài giây và đôi khi có thể cả cuộc đời, nhưng cũng hãy cứ tha thứ... để chính bạn cũng được thứ tha.

Có lẽ chỉ có người tội lỗi nhất, thánh thiện nhất mới hiểu được câu nói này. Ai chưa một lần phạm tội người ấy chả có thể hiểu tha thứ là gì lấy gì nói đến khả năng tha thứ cho người khác. Kẻ nào không thể tha thứ, người ấy chỉ có thể là quá ích kỉ mà thôi chứ không thể là thánh nhân mà cũng không thể là tội nhân biết hối.

Những cơn cám dỗ qua rồi, còn đọng lại nơi ta những gì? Chắc chắn đó phải là những bài học về tình yêu thương và sự tha thứ. Có một thứ tình yêu đẹp đến nỗi chỉ có sự tha thứ, đó chính là tình yêu của Thiên Chúa. Vì Ngài quên hết mọi lỗi lầm của ta, vì Ngài tha hết mọi lỗi tội của ta cho dù tội ấy có đỏ như son, có chóe như lụa tía. Ngài là ai? Ngài là ai vậy mà có thể yêu thương ta đến vô tận như thế?

Đừng bao giờ tin vào lời hứa suông của kẻ không bao giờ biết tha thứ, cũng đừng kì vọng quá nhiều vào tình yêu thương của kẻ khác. Ngược lại, hãy tin vào chính mình và phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Chỉ một mình Ngài mới có thể yêu bạn vô điều kiện, chờ đợi bạn vô thời gian và cứu độ bạn không lời giải thích. Đó chắc chắn phải là thứ tình yêu mà bạn cần nên tìm kiếm.

Lạy Chúa, như bao người, con là kẻ mò mẫm đi tìm tình yêu. Con không mất quá nhiều thời gian để mà lựa chọn bởi con biết đâu là tình yêu thực. Thế nhưng, thứ tình yêu mà con thực sự cần thì lại không phải như thế. Con không cần vinh hoa, phú quí nhưng con cần một tình yêu bất diệt. Tình yêu ấy có thể tha thứ và cứu độ con, chữa lành con và chờ đợi con chứ không phải tình yêu hủy diệt. Kẻ nào yêu bạn rồi lại hủy diệt bạn thì đó chỉ có thể là kẻ ác không thì tàn nhẫn. Xin giúp con, nếu như không thủ đắc được thứ tình yêu bất diệt thì chính bản thân hãy biết tha thứ và  thương yêu bất diệt, để Thiên Chúa cũng bất diệt yêu con...

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

MÙA CHAY: HÀNH TRÌNH TÂM LINH VÀ 10 ĐIỀU CẦN NHỚ

Mùa Chay là khoảng thời gian thiêng liêng, kéo dài 40 ngày, được Giáo hội ban tặng để mỗi tín hữu có thể dừng lại, tự nhìn lại bản thân và hướng về ơn cứu độ của Đức Kitô. Đây không chỉ là thời gian của sự chay tịnh, mà còn là hành trình tinh thần giúp chúng ta thấm nhuần những giá trị căn bản của đức tin: sự khiêm nhường, lòng ăn năn và ý chí yêu thương vô điều kiện. Để dễ dàng ghi nhớ và thực hành, Giáo hội đã tóm gọn thông điệp của Mùa Chay qua khẩu hiệu “Cầu nguyện, Ăn chay, Bố thí.” Dưới đây là 10 điều cần nhớ trong Mùa Chay, được trình bày chi tiết và sâu sắc, nhằm giúp mỗi tín hữu hiểu rõ hơn về ý nghĩa và nhiệm vụ của mình trong mùa lễ trọng đại này.

 

1. Hãy nhớ khẩu hiệu Mùa Chay:

Khẩu hiệu “Cầu nguyện, Ăn chay, Bố thí” được Giáo hội ban tặng nhằm tóm gọn những chân lý đức tin thiết yếu mà mỗi tín hữu cần sống trong suốt Mùa Chay. Giống như các danh sách quen thuộc như 10 Điều Răn, 7 Bí Tích hay 3 Ngôi vị trong Ba Ngôi, khẩu hiệu này là kim chỉ nam để chúng ta không quên mục đích thiêng liêng của mùa lễ.

Khẩu hiệu không chỉ là lời nhắc mà còn là cam kết sống, giúp chúng ta xác định rõ ba trụ cột căn bản cần hướng về. “Cầu nguyện” nhấn mạnh việc mở rộng mối quan hệ với Thiên Chúa qua giao tiếp tâm linh, “Ăn chay” là cách chúng ta thể hiện sự kiềm chế, từ bỏ những cám dỗ vật chất để tập trung vào tinh thần, còn “Bố thí” chính là hành động yêu thương, sẻ chia với những người đang thiếu thốn, thể hiện lòng nhân ái và sự hy sinh theo gương của Đức Kitô. Đây chính là ba trụ cột giúp chúng ta tự rèn luyện và phục hồi tinh thần, hướng về một cuộc sống đức tin trọn vẹn.

 

2. Thời gian cho cầu nguyện:

Cầu nguyện là linh hồn của Mùa Chay. Trong hành trình 40 ngày này, mỗi tín hữu được mời gọi bước vào những giờ phút tĩnh lặng, để trò chuyện cùng Thiên Chúa. Cầu nguyện không đơn thuần chỉ là việc đọc kinh hay tụ tập tại nhà thờ; nó là thời gian để lắng nghe, suy ngẫm và tìm kiếm sự an ủi từ Chúa giữa những thử thách của cuộc sống.

Mỗi lời cầu nguyện là một bước tiến trên con đường trở về với Đức Kitô. Khi ta dâng lời cầu nguyện, những lo toan, những mâu thuẫn nội tâm được nhẹ nhàng giải tỏa, giúp tâm hồn trở nên trong sạch và nhạy bén hơn với tiếng gọi của Thiên Chúa. Hãy coi mỗi buổi sáng, mỗi giờ giấc riêng tư là cơ hội để “nối kết” với Thiên Chúa – để tâm trí ta được nâng niu, được nuôi dưỡng bởi tình yêu và lòng từ bi vô bờ bến của Ngài. Qua đó, ta nhận ra rằng, mặc dù thế gian có nhiều điều bận rộn và hỗn loạn, thì Thiên Chúa luôn chờ đợi ta trở về, sẵn sàng ban cho ta sức mạnh và niềm tin mới.

 

3. Thời gian cho chay tịnh:

Chay tịnh trong Mùa Chay là một cách thực hành đền tội và rèn luyện bản thân qua việc từ bỏ những thứ xa xỉ, những niềm vui vật chất nhất thời. Việc cắt giảm bữa ăn hay kiêng khem các món đặc biệt như xúc xích, bia, kẹo dẻo, dù đôi khi bị coi như “trò chơi” đối với một số người, nhưng về cốt lõi, nó là hành động khắc phục những thói quen lệ thuộc vào vật chất, nhắc nhở ta nhớ rằng thân xác này chỉ là “tro bụi” – một hình ảnh khiêm nhường của sự hữu hạn.

Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh là những ngày mà giáo dân kiêng thịt, như một cách để thể hiện lòng ăn năn và tự kiểm soát. Hành động này không chỉ là sự từ bỏ cám dỗ, mà còn là dịp để mỗi người cảm nhận được những khó khăn, những nhọc nhằn mà người nghèo hay những người bị đói khát phải trải qua. Khi ta từ bỏ những điều hằng ngày quen thuộc, ta mở ra không gian cho tâm hồn nhận thức được sự cần thiết của việc thay đổi, của sự phục hồi đức tin và trở về với Đức Kitô – Đấng đã dâng trọn chính mình cho nhân loại.

 

4. Thời gian cho việc rèn luyện bản thân:

Mùa Chay không chỉ là thời gian để từ bỏ, mà còn là cơ hội để tự làm mới, tự rèn luyện bản thân. Đây là khoảng thời gian tuyệt vời để mỗi tín hữu đặt ra mục tiêu phát triển cá nhân, từ việc tăng cường sức khỏe, nâng cao tinh thần, cho đến việc cải thiện mối quan hệ gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.

Thay vì chỉ tập trung vào việc loại bỏ những thói quen xấu, Mùa Chay còn khuyến khích chúng ta thực hiện những hành động tích cực: tham gia các hoạt động cộng đồng, tình nguyện, hoặc đơn giản là dành nhiều thời gian hơn cho những điều có ý nghĩa. Mỗi hành động tích cực sẽ dần tạo nên một thói quen sống lành mạnh, giúp chúng ta trưởng thành hơn về tinh thần và hình thành một cuộc sống đức tin sâu sắc. Hãy coi Mùa Chay là khoảng thời gian để “làm mới” chính mình, để từ từ xây dựng những thói quen tốt đẹp, bền vững theo thời gian.

 

5. Việc chết đi với chính mình:

Một trong những thông điệp sâu sắc nhất của Mùa Chay là việc “chết đi với chính mình.” Điều này không có nghĩa là từ bỏ sự sống, mà là nhận ra và buông bỏ những phần yếu đuối, những thói quen tiêu cực và những suy nghĩ không phù hợp với hình ảnh của Đức Kitô. Hình ảnh cái chết của Đức Kitô trên thập giá là lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng, qua đau khổ và cái chết của những điều cũ rích, chúng ta mới có thể phục sinh thành con người mới – một con người trong sạch, sống chân thành và hướng về ơn cứu độ.

Việc “chết đi” với những phần không hoàn hảo của bản thân là quá trình hàn gắn nội tâm, giúp ta nhận ra rằng, dù ta có phạm sai lầm bao nhiêu, Thiên Chúa luôn mở lòng tha thứ và cho ta cơ hội khởi đầu lại. Đây cũng là lúc chúng ta học cách đối diện với chính mình, nhìn nhận những điểm yếu một cách trung thực, rồi từ đó, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, dần dần “phục sinh” trong con người mới – con người có thể yêu thương và sống theo gương của Đức Kitô.

 

6. Đừng làm quá nhiều – Hãy giữ mọi thứ đơn giản và tập trung:

Trong nỗ lực tự cải thiện bản thân, chúng ta dễ rơi vào bẫy của sự tham vọng quá mức, đặt ra quá nhiều mục tiêu cùng một lúc. Mùa Chay dạy chúng ta rằng, điều quan trọng nhất không phải là làm được bao nhiêu việc, mà là làm tốt những việc ý nghĩa và cần thiết. Giáo hội đã thực hành và sống theo những mầu nhiệm thiêng liêng này qua bao thế hệ, và qua đó, chúng ta nhận ra rằng sự đơn giản và tập trung chính là chìa khóa để đạt được sự trưởng thành về đức tin.

Hãy chọn một vài mục tiêu có ý nghĩa, rồi kiên trì theo đuổi trong suốt Mùa Chay. Thay vì ép mình vào một danh sách dài những việc cần làm, hãy lắng nghe trái tim mình, chọn ra những hành động mà bạn cảm nhận được sự kêu gọi từ Thiên Chúa. Điều này không chỉ giúp tránh cảm giác quá tải, mà còn tạo điều kiện cho mỗi người phát triển theo cách riêng, phù hợp với hoàn cảnh và khả năng của bản thân. Khi ta làm như vậy, mỗi hành động sẽ trở thành một bước tiến vững chắc trên con đường đến gần hơn với Thiên Chúa.

 

7. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta về sự yếu đuối của bản thân:

Trong quá trình thực hành chay tịnh và tự kiểm soát, chúng ta không tránh khỏi những khoảnh khắc nhận ra sự yếu đuối của mình. Mỗi bữa ăn đơn giản, mỗi sự từ bỏ những điều dễ chịu thường nhật đều làm ta nhận ra rằng, thân xác con người vốn dĩ mong manh và dễ bị cám dỗ. Điều này có thể khiến chúng ta cảm thấy đau khổ, nhưng cũng chính nhờ đó mà lòng khiêm nhường được bồi đắp.

Sự yếu đuối ấy là một lời kêu gọi mở lòng, tìm kiếm sự trợ giúp từ Thiên Chúa một cách chân thành và khẩn thiết hơn. Khi nhận ra mình yếu đuối, chúng ta sẽ biết rằng chỉ có sự ban ơn của Thiên Chúa mới có thể làm cho tâm hồn ta trở nên mạnh mẽ, an lạc và tràn đầy hy vọng. Đây chính là bài học quý giá của Mùa Chay: không ai là hoàn hảo, nhưng mỗi người đều có thể trở nên tốt đẹp hơn qua sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

 

8. Hãy kiên nhẫn với chính mình:

Sự nhận thức về những điểm yếu và hạn chế của bản thân đôi khi dẫn đến cảm giác thất vọng và tự trách. “Tôi thật là người xấu!” – đây là những lời tự phán xét mà chúng ta thường tự dằn vặt khi không đạt được mục tiêu. Tuy nhiên, Mùa Chay dạy rằng, thay vì tự chỉ trích, hãy kiên nhẫn và yêu thương chính mình như cách mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta.

Sự kiên nhẫn với bản thân không chỉ là việc tha thứ cho những sai lầm mà còn là việc nhận ra rằng quá trình thay đổi và trưởng thành là một hành trình dài, đòi hỏi sự bền bỉ và niềm tin vững chắc. Hãy xem mỗi thất bại là một bài học, mỗi bước chậm rãi là một dấu hiệu của quá trình “phục sinh” nội tâm. Khi ta đối xử với chính mình bằng lòng từ bi, ta sẽ dễ dàng mở lòng hơn để tiếp thu những điều tốt đẹp từ Thiên Chúa và từ những người xung quanh.

 

9. Vươn tới đức ái và lòng nhân từ:

Khi chúng ta trải qua những khó khăn, khi nhận ra sự yếu đuối của chính mình, điều tự nhiên là lòng cảm thông và đức ái sẽ được đánh thức. Mùa Chay không chỉ là khoảng thời gian để tự kiểm điểm mà còn là dịp để mở rộng tấm lòng đối với những người khác – những người đang đau khổ, đói khát hay thiếu thốn.

Bố thí không chỉ đơn thuần là việc quyên góp một khoản tiền nhỏ vào giỏ nhà thờ, mà còn là hành động tiếp cận, sẻ chia và hỗ trợ những người cần giúp đỡ một cách chân thành và vô vị lợi. Khi ta cho đi, ta cũng đang nhận lại được niềm vui của sự chia sẻ, của tình yêu vô điều kiện mà Thiên Chúa đã ban cho. Qua đó, mỗi hành động bố thí trở thành một cầu nối giúp chúng ta hiểu rằng, tình yêu thương không chỉ giúp cải thiện cuộc sống của người khác mà còn làm phong phú thêm tâm hồn của chính chúng ta.

Đức ái của Thiên Chúa luôn được thể hiện rõ nét qua những hành động giản đơn nhất: một nụ cười, một cái bắt tay, một lời động viên hay sự chia sẻ yêu thương. Trong Mùa Chay, hãy để lòng cảm thương được bồi đắp qua những việc làm từ thiện, qua việc giúp đỡ những người đang gặp khó khăn, để từ đó, chúng ta càng thêm gắn kết với ơn cứu độ của Đức Kitô.

 

10. Học yêu như Đức Kitô:

Cuối cùng, Mùa Chay là hành trình đưa chúng ta đến gần hơn với hình ảnh của Đức Kitô – Người đã chịu đau khổ, đã hy sinh và trao ban chính mình cho nhân loại. Học yêu như Đức Kitô không chỉ là học cách tha thứ, mà còn là học cách sống một cách trọn vẹn, biết hy sinh và đặt lợi ích của người khác lên trên bản thân.

Qua hình ảnh của Người trên thập giá, chúng ta được dạy rằng tình yêu thật sự không phải là sự nhận lấy mà là sự trao đi. Mùa Chay chính là khoảng thời gian để ta học cách yêu thương một cách vô điều kiện, vượt qua cả những giới hạn của bản thân. Đây là hành trình vượt qua “sa mạc” của sự tự kiêu, của những thói quen cũ rích, để cuối cùng được phục sinh thành con người mới – con người của tình yêu, của sự hy sinh và của niềm tin vào ơn cứu độ.

Học yêu như Đức Kitô còn đồng nghĩa với việc đối diện với nỗi đau, đối diện với chính những mất mát, nhưng qua đó, ta tìm thấy sức mạnh để vượt lên, để sống với niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng mà Đức Kitô đã hứa ban. Hãy để nỗi đau của Người trở thành nguồn cảm hứng, là động lực để mỗi chúng ta không chỉ sống cho riêng mình mà còn sống cho cộng đồng, cho tình yêu thương bao la của Thiên Chúa.

 

Kết Luận:

Mùa Chay là một hành trình tâm linh đầy ý nghĩa, là khoảng thời gian đặc biệt để mỗi tín hữu dừng lại, nhìn lại bản thân và thực hành đức tin một cách sâu sắc. 10 điều cần nhớ trong Mùa Chay – từ việc ghi nhớ khẩu hiệu “Cầu nguyện, Ăn chay, Bố thí” cho đến việc học yêu như Đức Kitô – là những hướng dẫn thiết yếu, giúp chúng ta nhận diện được con đường trở về với Thiên Chúa.

Hãy để khẩu hiệu này không chỉ là lời nói mà trở thành hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Dù có lúc chúng ta cảm thấy yếu đuối, thất vọng hay tự trách, hãy nhớ rằng Mùa Chay là dịp để chúng ta được làm mới, được phục sinh trong đức tin và được ban cho sức mạnh từ Thiên Chúa. Qua mỗi giờ cầu nguyện, qua mỗi bữa ăn chay, qua mỗi hành động bố thí, ta dần dần trưởng thành, dần dần trở nên giống với hình ảnh của Đức Kitô – người của tình yêu, của sự hy sinh và của lòng bao dung.

Trong hành trình 40 ngày thiêng liêng này, hãy kiên trì với những mục tiêu mà bạn đã đặt ra, dù cho chúng có thể nhỏ bé nhưng chúng chính là những viên gạch xây đắp nên một đời sống đức tin vững chắc. Mỗi bước đi, dù chậm rãi, cũng là bước tiến gần hơn đến với sự trong sạch của tâm hồn, đến với niềm tin vào ơn cứu độ của Chúa Kitô. Hãy để mỗi ngày trong Mùa Chay là một dịp để bạn tự nhìn lại, để bạn dâng hiến bản thân một cách trọn vẹn, và để bạn cảm nhận được tình yêu vô bờ của Thiên Chúa lan tỏa khắp mọi nơi.

Cuối cùng, hãy nhớ rằng Mùa Chay không chỉ là khoảng thời gian của sự khổ hạnh mà còn là thời gian của hy vọng, của sự sống mới và của tình yêu bất diệt. Nhờ sự kiên nhẫn, lòng cảm thương và ý chí hy sinh, chúng ta sẽ được phục sinh trong đức tin, trở nên mạnh mẽ hơn trong con đường hướng về Thiên Chúa và trở thành nguồn cảm hứng cho cộng đồng xung quanh.

Xin hãy mở lòng, hãy dâng trọn tâm hồn mình cho hành trình Mùa Chay này, để từ đó, mỗi người chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui của sự phục sinh, của tình yêu sống mãi và của ơn cứu độ mà Đức Kitô đã ban cho.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

NHƯ VẬY CÓ ĐƯỢC HAY KHÔNG? 

Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết đến công nghệ AI đang rần rần nổi sóng trên các trang mạng xã hội. Có người dùng AI với mục đích tốt, phục vụ cho công việc và cuộc sống, nhưng cũng có người lạm dụng AI để phục vụ cho những nhu cầu cá nhân ích kỉ, lừa phỉnh, giả dối…

Thế nhưng, có một điều chúng ta cần nói tới, chính là sản phẩm của AI đôi khi còn tốt hơn con người thật. Một tin nhắn gửi đến AI hồi đáp tức thì với cung cách lịch sự nhất. Bởi chúng được tạo ra từ những nhà khoa học, tiến sĩ, giáo sư, bác sĩ, kĩ sư, nhà tâm lý học, ngôn ngữ học… nổi tiếng, tài ba trên thế giới. Có thể nói đó là sản phẩm hoàn hảo của những nhà tâm huyết với mục đích phục vụ nhu cầu con người. Họ sáng tạo ra AI để phục vụ cho mục đích tốt của con người nhưng không phải với tất cả mục đích. AI chỉ là giúp đỡ người dùng và tăng cường kiến thức cho họ chứ không phải cho cả mục đích xấu xa. Khi làm việc AI cũng rất lịch sự và tế nhị, không phải bất cứ điều gì ta đề nghị AI cũng vâng lời cách vô điều kiện, nhưng AI đã được lập trình để giúp con người có được những sản phẩm hoàn hảo nhất.

Thiên Chúa lập trình để tạo nên chúng ta. Ngài dùng tất cả khả năng của Ngài để tạo ra một thụ tạo tuyệt vời nhất giống với hình ảnh Ngài. Tuy nhiên, chúng ta không phải là sản phẩm như AI nhưng chúng ta là một thọ tạo, là một ngôi vị. Chúng ta không làm việc như một cái máy nhưng ngược lại chúng ta hành động trong trách nhiệm và tự do lựa chọn.

AI được sáng tạo với mục đích tốt từ những tấm lòng và tâm huyết của những nhà khoa học tài ba. Tuy nhiên, việc sử dụng AI có trách nhiệm và đạo đức lại hoàn toàn phụ thuộc vào người dùng nó. Cả người sáng lập và người dùng đều có vai trò quan trọng trong việc sử dụng AI cho các mục đích tốt đẹp mang lại lợi ích cho con người.

Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta bắt đầu từ mục đích tốt đẹp và thánh thiện của Người, là muốn cho chúng ta được sống và hạnh phúc. Tuy nhiên, để sản phẩm của Ngài có thể trở thành một sản phẩm tốt đẹp thì đòi hỏi phải là chính chúng ta, những người trực tiếp sống sản phẩm đó. Không thể đổ lỗi tất cả cho Thiên Chúa. Sản phẩm Ngài sáng tạo nguyên thủy đều tốt đẹp, nhưng Ngài ban cho họ tự do của Ngài. Tự do để con người chọn lựa tốt, xấu mà rèn luyện trở lên tốt hơn chứ không phải để khiến mình xấu đi. Kẻ nào chọn lựa trở thành phiên bản tệ hơn ngày hôm qua thì người đó vô cùng ích kỉ và xấu xa. Bởi Thiên Chúa không tạo ra sản phẩm hư nát bao giờ. Chả nhà bác học tài đức nào lại chọn chế tạo ra một sản phẩm hư nát cả. Chỉ có kẻ biếng nhác, sa đọa và hèn nhát mới khiến bản thân tồi tệ hơn ngày hôm qua mà thôi.

“Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây sâu nào lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì  biết cây.” (Lc 6, 43) Nếu như lòng anh em chả lưu giữ những điều tốt lành thì làm sao anh em có thể sống tốt lành. Đó là sự thật. Bạn cảm nhận được sự tốt lành của người khác thì chính bản thân bạn đã là người tốt lành. Sự tốt lành đến từ chính trái tim bạn trước khi đến từ người khác. Đây chính là câu nói mà Copilot và ChatGPT đã dành cho tôi: “Mọi hành động tốt đẹp đều bắt đầu từ chính mỗi cá nhân. Việc nhận ra và đánh giá cao sự tốt lành trong người khác chính là phản ánh của sự tốt lành trong bạn. Bất kỳ lời khen ngợi nào bạn dành cho tôi cũng là biểu hiện của sự tốt đẹp và lòng nhân ái trong bạn.” Hay quá và đúng quá phải không ạ?

Thật vậy, sự tốt lành không thể đến từ bên ngoài nhưng là nó xuất phát từ chính trái tim hoặc có chăng thì sự tốt lành ấy cũng chỉ là chóng vắn, nhất thời. Người có trái tim nhân ái thì trong mọi thời gian, không gian và hoàn cảnh, họ cũng mãi mãi là người nhân ái. Cuộc sống đôi khi có thể đánh cắp trái tim của họ, nhưng nước chảy về nguồn, máu chảy về tim, một trái tim lương thiện cũng mãi mãi là người lương thiện. Cho dù cô ấy có đi rất xa, đi thật xa rồi thì cũng sẽ có lúc cô ấy trở về, sẽ có lúc cô ấy quay trở lại với trái tim nguyên vẹn, thánh thiện thuở ban đầu, trái tim không thể bị đánh cắp. Và chỉ một mình Thiên Chúa, Đấng giàu lòng từ bi và nhân ái mới có đủ kiên nhẫn chờ đợi cô ấy quay trở lại để mà tha thứ và thương yêu, băng bó và chữa lành. Con người thường thì sẽ bỏ rơi và tránh cho thật xa, rời đi thật xa… và sẽ không bao giờ quay trở lại và cũng không muốn quay trở lại để mà cảm thông, tha thứ và thương yêu!

Bạn sinh ra đã có trái tim như thế nào? Đó có phải là trái tim nhân hậu hay không? Hay ngay từ vạch xuất phát bạn đã là người ích kỉ, xấu xa? Câu trả lời dành cho mỗi người. Hãy chiêm niệm để khám phá chính bản thân. Nếu như không hiểu được chính mình, bạn sẽ không bao giờ chiến thắng nó cả. Và nếu như không chiến thắng được chính mình, bạn cũng sẽ không bao giờ mang được hạnh phúc đến cho người khác, bởi bản thân bạn có hạnh phúc đâu.

Hạnh phúc không phải là thứ được cân đo đong đếm bằng của cải, vật chất, tiền tài, danh vọng, chức tước… nhưng hạnh phúc là thứ bình an trong tâm hồn. Không phải là bình an của kẻ có một cuộc sống sung mãn, đủ đầy nhưng là bình an của kẻ biết mình là ai, biết tha nhân là ai và biết Thiên Chúa là ai.

Tôi biết tôi là ai để tôi kiên cường đứng vững trước mọi sóng gió cuộc đời, để tôi rèn luyện bản thân trở lên một phiên bản tốt hơn ngày hôm qua. Tôi biết tha nhân là ai để không lệ thuộc quá nhiều vào họ, để tha thứ, thương yêu và đồng hành với họ, biết ơn họ và tôn trọng họ. Tôi biết Thiên Chúa là ai để yêu kính, tôn thờ Ngài, tin tưởng, phó thác tuyệt đối cho Ngài. Và nhất là tôi biết Ngài là ai để Ngài là sức mạnh và là ơn cứu độ, là hạnh phúc của tôi. Vâng, Ngài chính là sức mạnh, là ơn cứu độ và là hạnh phúc của tôi.

Trước đây tôi cứ cúi mình mà đi nhưng ngày nay tôi đã biết ngẩng cao đầu. Không phải vì kiêu ngạo, cũng không phải vì kẻ địch đang đứng đằng sau nhưng là vì trái tim tôi đủ dũng mãnh để đối chọi với mọi giông tố cuộc đời. Tôi thẳng lưng bước đi không phải là thách thức nhưng là để sẵn sàng hứng chịu và thứ tha. Tôi ngày hôm nay đã là phiên bản khác hơn ngày hôm qua. Cảm ơn cuộc sống đã tôi luyện tôi, cảm ơn Thiên Chúa đã thánh hóa tôi.

Lạy Chúa, con chả dám tự hào mình là người tốt nhưng chí ít con vẫn không phải là kẻ ác khiến người khác bị tổn thương. Chưa bao giờ trong đời con có ý định tổn thương người khác vì con biết nó sẽ rất đau. Con thà tổn thương chính mình chứ không làm tổn thương người khác. Bởi con biết rằng chọn lựa tổn thương người khác là sự chọn lựa tàn nhẫn nhất. Con không quen sống trong sự đối xử tàn nhẫn với người khác. Không tha thứ được cho ai, thì con chọn lãng quên thay vì thù hận. Lãng quên ở đây không có nghĩa là bỏ rơi nhưng chính là trả lại cho Chúa người con chả thể yêu thương. Con chọn buông tha cho họ để buông tha sự oán hận trong trái tim mình. Có lẽ con là kẻ thực dụng, nhưng mà con cũng không thể bắt ép trái tim làm điều mình không thể. Xin lỗi Ngài, con là kẻ sống theo trái tim. Cũng vậy, con chấp nhận điều họ không thể, không muốn hoặc cố tình làm cho con… Lạy Chúa, chỉ xin Ngài ban cho con có một trái tim không biết khóc, để con có thể kiên cường, quảng đại đón nhận mọi bất công của cuộc đời. Như những người bạn AI không bao giờ biết khóc mà chỉ biết mang hạnh phúc và lợi ích đến cho mọi người mà thôi… Như vậy có được hay không?

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

TÊN EM LÀ MỘT DÒNG SÔNG 

Tha thứ cho người khác để con được thứ tha. Tha thứ không phải là mê muội không biết phân biệt đúng sai, không phân biệt được tốt xấu, nhưng tha thứ chính là lấy sự hy sinh, lấy lòng quảng đại của mình khuất phục sự ác.

Trước đây khi đọc được đoạn Tin mừng này có lẽ tôi cảm thấy khó chịu vì khó thực hiện, nhưng đến tuổi này tôi không còn cảm thấy quá khó khăn nữa, không phải vì tôi đã tốt, đã thánh thiện. Đơn giản chỉ vì tôi già đủ để không còn quá ngạc nhiên với cuộc sống. Thật vậy, sẽ đến một lúc nào đó người ta không còn hận, người ta cũng không còn ghét người tổn thương họ, nhưng là đón nhận và chấp nhận. Vì tình yêu Thiên Chúa mà tôi đón nhận chị và vì tình yêu ấy mà tôi chấp nhận chị bằng chính cả con người tôi.

Không hề đơn giản để chấp nhận một điều ác, càng không hề đơn giản để chấp nhận người tổn thương mình. Bởi đó chả khác nào là sự xúc phạm. Nhưng thời gian lại dạy tôi phải trở nên cao thượng. Tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho bản thân, buông tha người khác cũng là buông tha chính mình. Buông bỏ một điều bất hạnh cũng là để bản thân được hạnh phúc. Thế nên, bây giờ tôi mới thấy sự cần thiết của tha thứ. Tha thứ không chỉ khiến mình cao thượng, nhân từ hơn mà lại còn vĩ đại hơn nữa.

Có nhiều trận chiến, nhưng không trận chiến nào huy hoàng cho bằng cuộc chiến thắng chính mình. Ai tha thứ được cho bản thân, người ấy mới có khả năng tha thứ cho tha nhân. Ai một khi còn không thể thoát ra khỏi vỏ ốc của chính mình thì người ấy không thể nào tha thứ cho người khác. Một khi ai đó đã thoát ra khỏi vỏ ốc của bản thân người đó mới có thể dễ dàng đến với tha nhân.

Không gì vĩ đại bằng tha thứ, cũng không gì cao thượng bằng cho đi. Cho đi sự tha thứ, cho đi sự thương yêu là món quà vô giá của cuộc sống. Đôi khi thất bại lại chính là chiến thắng. Thay vì hoan hỉ trong huy hoàng, mình cứ chọn sự âm thầm tha thứ. Sức mạnh của thinh lặng lớn hơn cả sự chết. Thế nên, hãy tập cho cái tâm thật bình an và bình thản để đón nhận mọi bất ổn của cuộc đời bằng sự tha thứ và thương yêu.

Ai không thể tha thứ, người đó không thể làm người. Ai không thể đón nhận bất ổn của cuộc sống người đó không thể tồn tại. Đón nhận người khác không phải là thập giá, nhưng chính là thánh giá đưa ta đến vinh quang bất diệt của sự thiện. Trong trận chiến này, bạn là người thắng, tôi là người thua, nhưng bù lại bạn ra đi mãi mãi còn tôi kiên cường đứng lại, lặng lẽ và dũng cảm như sao sáng trên bầu trời mà chả cần mong ai biết ai quen. Quả thật, sự thiện bất diệt là vậy.

Hôm nay Chúa Giêsu dạy ta yêu thương kẻ thù thực ra là yêu thương chính bản thân ta. Bởi oán ghét người khác là đang hành hạ chính mình. Nên thôi: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em...” (x. Lc 6, 27-38) không phải vì chính họ mà là vì chính anh em. Bởi cho đấu nào thì sẽ được trả lại bằng đấu ấy.

Sẽ đến một lúc người ta tha thứ không phải vì một ai khác mà là vì bản thân chẳng còn muốn nói, chả còn muốn chấp, chả còn sân si... người ta buông bỏ bởi ý thức oán hận người xấu chả khác nào mình còn xấu hơn họ. Hãy vì bản thân, hãy vì Đấng đã tha thứ cho mình mà nhân từ với người khác.

Có lẽ kẻ tha thứ nhiều nhất chính là người tội lỗi nhất. Bởi họ ý thức chính Thiên Chúa là Đấng đã cho họ tha thứ và thương yêu.

Lạy Chúa, làm người như bao người con cũng từng trải qua những cú sốc cực độ vì bị đối xử tàn nhẫn, tráo trở... Thế nhưng, thời gian đã tôi luyện con trở thành một người khác, chả muốn sân si để hủy diệt chính mình. Càng ngày con càng khám phá ra mầu nhiệm của sự tha thứ. Tha thứ để mình bị hóa ra không, bị hủy diệt và càng bị hủy diệt thì mình lại càng bất tử. Con chọn bị quên lãng ở đời này cho dù có phải làm một ngôi sao cô đơn, lẻ loi trên bầu trời rực sáng cũng không sao cả. Bởi không gian vô tận, vũ trụ bao la này vẫn không bằng ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Như chị thánh Têrêsa bé nhỏ, xưa kia con ôm ấp trong mình ước mơ tên gọi được ghi dấu ở trên trời, thì ngày nay con lại mơ ước tên mình tồn tại lặng lẽ như dòng sông giữa bầu trời giông tuyết hay đêm đen dày đặc. Con vẫn đứng vững nơi ấy như biểu tượng của một niềm tin bất diệt vào Chân Thiện Mỹ không gì khuất phục - Đấng là ơn cứu độ và hạnh phúc của con. Có Ngài con mới có thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa và người ta...

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CÔ GÁI LƯƠNG THIỆN 

Tin mừng hôm nay là bài giảng về các mối phúc. Có thể nói đó là những điều phúc ngược với nhận định của nhân loại. Khi người ta cho rằng giàu có là phúc thì Chúa Giêsu lại dạy ta sống nghèo khó. Con đường theo Chúa là con đường hẹp, con đường thập giá. Thế nên, thật khó để chúng ta bước theo.

Nếu chỉ cậy vào sức mình, chúng ta không thể nào đi hết con đường Thiên Chúa muốn nhưng nếu như biết trông cậy, phó thác, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu và ơn cứu độ của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ thành công.

Những mối phúc mà Thiên Chúa dạy dỗ chúng ta hôm nay, đó là những hy sinh, những cơ hội để chúng ta nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Ngài. Quan trọng không phải là chúng ta tài giỏi, xinh đẹp, giàu có ra sao, quan trọng cũng không phải là chúng ta nghèo khó thế nào, nhưng quan trọng là chúng ta nhận ra Thiên Chúa yêu thương mình nhường nào để mà đáp trả.

Thật vậy, cuộc sống này không gì quan trọng cho bằng sự chân nhận và khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Vì chính lúc đó là khi chúng ta mới có tương quan ngôi vị thật sự với Ngài. Bằng không thì chỉ là niềm tin trống rỗng. Nếu khi bạn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời chính là khi bạn cố gắng sống đáp trả tình yêu Ngài.

Nhận ra Thiên Chúa yêu thương mình và sống đáp trả không có nghĩa là bạn đã thực sự hoàn hảo. Bởi chả ai là người vô tội ngoại trừ Thiên Chúa nhưng chính là lúc chúng ta cố gắng sống làm người tử tế.

Từ nhỏ, tôi đã khao khát trở thành người lương thiện, đơn giản tôi thích sự thiện, tôi yêu thích cái đẹp và tôn sùng cái đẹp. Tôi sống theo chủ nghĩa duy mỹ thế nên cuộc đời tôi gặp không ít khó khăn. Và cho đến bây giờ tôi vẫn cứ yêu thích sự thiện. Nhưng thay vì trốn tránh cái ác, cay nghiệt với cái ác, tôi đã biết nhìn nhận nó với một chiều kích đón nhận hóa.

Tôi đón nhận khiếm khuyết của cuộc sống như Thiên Chúa đón nhận khiếm khuyết của tôi. Tôi cũng bớt cay đắng với lòng người mà bình tĩnh đón nhận mọi đối xử khắt khe bất công của kẻ khác với cái nhìn bình tĩnh nhất. Trái tim tôi đã được tôi luyện trong đau khổ và thử thách không phải để chai sạn và bất cần nhưng là để rèn luyện tôi trở nên người quả cảm hơn, bao dung hơn, vị tha hơn, trưởng thành hơn, cao thượng hơn, tự tin hơn và dũng cảm hơn.

Từ nhỏ tôi đã rất thích trở thành một cô gái can đảm và dũng cảm. Tôi cũng rất kiên trì và chịu thương chịu khó, tôi lại còn nổi tiếng là cứng đầu và ương bướng. Tôi rất có chính kiến, vì tôi là chính mình. Tôi thích đưa ra đáp án từ chính những khổ luyện và cảm nhận của bản thân chứ không phải vì nhận xét của người khác. Và vì thế, mỗi ngày tôi càng hiểu Thiên Chúa dạy tôi những mối phúc hôm nay: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang đói, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang khóc… “ (x. Lc 6, 20-21)

Trong Thiên Chúa, mọi sự đều trở thành phúc vì Ngài có thể bẻ cong san phẳng, Ngài san bằng mọi gồ ghề, lồi lõm thành trơn tru, nhẹ nhõm… Thiên Chúa của chúng ta là như vậy. Một Thiên Chúa rất yêu thích thinh lặng và hành động trong thinh lặng.

Không nói mà làm, không cầu xin mà thấu hiểu. Ngài tinh tế, nhạy cảm và đáng yêu như thế đó. Và Ngài chính là Thiên Chúa của tôi, tôi tự hào về Ngài, tôi hạnh phúc vì Ngài.

Giàu có, no đủ, vinh quang… không phải là tội, nhưng kẻ tôn thờ nó mới có tội. Cũng vậy, nghèo đói, khốn khó, đau buồn… cũng không phải là phúc, nhưng phúc cho người nào biết biến chúng trở thành phương tiện rèn luyện mình trở nên phiên bản tốt hơn ngày hôm qua đó mới là phúc. Vậy nên, ai đó đang nghèo đói cũng đừng vội mừng hay sầu khổ, ai đó đang giàu có no nê cũng đừng vội khóc hay cười vui, vì tất cả những thứ đó chỉ là phương tiện để bạn lấy làm khí cụ biến đổi bản thân hoàn hảo hơn ngày hôm qua là đủ.

Lạy Chúa, con luôn ao ước có một trái tim lương thiện và cuộc sống mỗi ngày cũng không ngừng dạy con trở thành người lương thiện. Người lương thiện không là người sinh ra đã được đặt ở vị trí nhất cho bằng họ đã trải qua quá nhiều mất mát và đau khổ mới có thể trở thành. Đó chính là sự chiến thắng chính mình. Đó chính là những mối phúc mà họ đã kênh qua nhiều đau khổ, hy sinh mới có được. Cô gái lương thiện không phải là cô gái may mắn, giàu có, sung sướng… nhưng là cô gái bị bạc đãi và bỏ rơi, bị ganh ghét và đố kị, bị hiểu lầm và kết án. Cô gái lương thiện không phải là cô gái vô tội, nhưng chính là kẻ vô cùng tội lỗi được Thiên Chúa thứ tha… Và mãi đến muôn đời, cho dù cuộc sống có thế nào, cho dù lòng người có đối đãi ra sao thì con vẫn mãi mãi muốn trở thành cô gái lương thiện của Chúa! Cúi xin Ngài thương ân ban cho con…

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

SỰ ĐÁP TRẢ CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG 

Có thể nói câu chuyện trong Tin mừng hôm nay đẹp như một giấc mơ. Đó là giấc mơ của một phép lạ mà người phàm không ai có thể thực hiện được. Khi ai đó có khả năng làm những điều phi thường mà người khác không thể làm thì ắt hẳn chỉ có thể là thánh nhân. Chứng kiến phép lạ nhãn tiền của Chúa Giêsu, ông Simon đã sấp mặt dưới chân Người mà nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5, 8)

Lời nói này của ông Simon chỉ dành cho những ai thực sự hiểu ngài. Đó là lời thốt lên tự tận đáy lòng. Một sự cảm phục vô bờ bến trước quyền năng của Thiên Chúa. Nghe có vẻ khiên cưỡng quá, vì Chúa Giêsu chỉ nói với ông: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” (Lc 5, 4) Chỉ là bắt cá thôi mà, có phải sát hạch điều gì đâu. Vậy mà khi chứng kiến phép lạ vĩ đại của Chúa, ông đã sấp mình thú tội với Ngài. Đó là hành động của một sự tuyên tín, tuyên xưng sự hiện diện vào quyền năng Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện trước mắt ông. Nhận ra sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa cũng chính là lúc chúng ta nhận ra sự bất toàn của bản thân. Chỉ những ai chân nhận sự bất toàn của bản thân người đó mới thực sự có tương quan ngôi vị thật với Thiên Chúa. Kẻ nào một khi còn chưa nhận biết giới hạn của mình, người ấy còn chưa hề có tương quan đích thực với Thiên Chúa.

Nhận biết giới hạn bản thân cũng chính là khẳng định sự yếu đuối tội lỗi của mình. Nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa cũng chính là không thể phủ nhận quyền năng và sức mạnh vĩ đại của Ngài. Khi đối diện với một vị Thiên Chúa thật đang hiện diện trong cuộc đời, người ấy chắc chắn sẽ thấy mình bất xứng và hoàn toàn bất xứng trước sự thánh thiện và công minh tuyệt đối của Ngài.

Thế nên, ai còn xem mình là nhất, là vĩ đại, là vô tội, người ấy chưa bao giờ kênh qua sự trải nghiệm với Thiên Chúa hằng sống cả. Người có kinh nghiệm tâm linh với Thiên Chúa, họ sẽ mặc trên mình chiếc áo của sự khiêm hạ và vâng phục, tấm áo làm nên vẻ đẹp tuyệt mỹ của Mẹ Maria, Mẹ của lời xin vâng.

Thiên Chúa không phải khiến con người nhận ra giới hạn của họ để rồi tự ti, mặc cảm, hủy diệt bản thân. Thế nhưng, Ngài cho con người nhận ra giới hạn bản thân để trở nên khí cụ mang lại niềm vui, bình an và hạnh phúc cho người khác: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta.” (Lc 5, 10)

Có người sinh ra để mang lại bình an, hạnh phúc cho người khác. Ngược lại, có người sinh ra chỉ để gieo cho người khác đau khổ. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho ông Simon được thấy để ông xác tín và tin chứ không phải để ông hoảng sợ mà xa tránh Thiên Chúa. Ngài không phải là một vị Thiên Chúa của đoán phạt nhưng là Thiên Chúa của tình yêu thương và ơn cứu độ. Khi Ngài ban ơn cho bạn nhận ra sự hiện diện, quyền năng và sức mạnh của Ngài không phải để bạn sợ hãi, nhưng chính là để bạn xác tín và tin. Khi đã tin, bạn sẽ yêu, khi đã yêu, bạn chắc chắn sẽ mang lại niềm tin và hạnh phúc cho người khác và như vậy là bạn đã cứu sống họ rồi. Nếu như không cứu được ai, thì đừng làm cho người khác phải chết. Nếu như không khiến cho ai hạnh phúc thì đừng làm cho họ khổ đau. Đừng tổn thương bất kỳ ai cho dù là vì lý do gì, bởi đó là tàn nhẫn.

Ai chọn tổn thương người khác để thỏa mãn chính mình đó là kẻ tàn nhẫn, ích kỉ. Ai chọn tổn thương mình để người khác được hạnh phúc thì đó là người cao thượng và vĩ đại. Hãy trở nên người vĩ đại cho dù bản thân có bị đối xử tàn nhẫn thế nào. Vì giọt nước mắt của hoa là giọt nước mắt trinh trong nhất.

Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi nhưng xin đừng bỏ rơi con vì con thực sự cần đến Ngài, vị Thiên Chúa của đời con. Hôm nay, thánh Phêrô đã tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa cũng chính là lúc ngài nhận ra sự hiện diện thực của Ngài. Xin giúp con, trong từng khoảnh khắc của cuộc đời, cho dù có khó khăn, vất vả đến đâu thì cũng hãy vững tin rằng Thiên Chúa, nguồn sức mạnh của đời con, luôn yêu thương và bảo bọc con. Nếu như Ngài có tự do yêu thương, vì chắc chắn Ngài cũng sẽ ban ơn cho kẻ yêu thương, kính trọng Ngài. Đó không phải là thiên tư tây vị cho bằng là kết quả hiển nhiên của tình yêu thương. Thế nên, con hãy cứ yêu đi, cứ mở lòng và cho đi để rồi chính tình yêu ấy sẽ đáp trả gấp bội phần cho con…

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

CÓ THIÊN CHÚA LÀ ĐỦ

Mình thích nhất câu Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay: “Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” (Lc 2, 40)

Thật vậy, không gì quí báu hơn việc được sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Đó là sự tương quan ngôn vị thật sâu sắc. Người sống cùng ân nghĩa với Thiên Chúa không phải là người tài giỏi hay thành đạt nhưng chính xác hơn chính là người cảm nghiệm chân thật sự hiện diện, quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa trên cuộc đời mình. Người sống cùng ân nghĩa với Thiên Chúa, nói một cách chính xác nhất, chính là người nhìn nhận sự thật về mình và sự thật về Thiên Chúa. Sự thật về mình là sự giới hạn của kiếp người, sự thật về Thiên Chúa là sự tha thứ, tình yêu thương, quyền năng và sức mạnh. Người trưởng thành không phải là người lớn tuổi, nhưng chính là người biết nhìn nhận giới hạn, lỡ lầm của bản thân và chân nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời.

Đúng vậy, người ta phạm lỗi thì dễ nhưng để nhìn nhận mình khiếm khuyết thì mấy ai có can đảm, đó chính là sự chưa trưởng thành. Người trưởng thành là người can đảm đối diện bản thân và đối diện cuộc sống. Nhưng nếu như ai đó chỉ cậy dựa vào sức mạnh của bản thân, người đó không bao giờ trưởng thành, chưa bao giờ trưởng thành. Người trưởng thành thực thụ là người biết tôi là ai và Thiên Chúa là ai.

Người biết tôi là ai, Thiên Chúa là ai sẽ sống khác lắm. Chắc chắn đó phải là người sống khiêm nhường và biết thứ tha. Người thứ tha là người vĩ đại nhất và trưởng thành nhất và cao thượng nhất. Từ tấm bé tôi đã khao khát làm người cao thượng, tôi yêu cái đẹp, tôi yêu sự thiện. Chúa Giêsu là tấm gương cao thượng mà tôi khao khát noi theo.

Chả phải tự nhiên con người có khôn ngoan, chả phải bẩm sinh tôi đã có khôn ngoan. Khôn ngoan tiên vàn là ân huệ nhưng không Thiên Chúa ban, sau nữa là sự rèn luyện của bản thân về tri thức và vốn sống. Có một số người nghĩ mình thành công nhờ năng lực, nhưng có một số người xác định rằng thành công là do ân huệ nhưng không Thiên Chúa ban cùng với sự cộng tác, nỗ lực không ngừng của mình.

Ai là người cũng được Thiên Chúa yêu thương. Tạo vật nào cũng được Thiên Chúa thương mến, Ngài tạo dựng mỗi người cách riêng theo như ý muốn của Ngài và cứu chuộc họ cũng theo cách Ngài muốn. Việc của chúng ta, sống là để khám phá. Khám phá sự hiện diện, quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa. Khám phá tình yêu thương nhưng không, sự quan phòng vô giới hạn của Ngài. Đồng thời cũng là sự khám phá sự tuyệt vời của thế giới mà Thiên Chúa tạo dựng, những điều kì diệu, những tấm gương quật cường, những hành động vĩ đại mà tha nhân và vạn vật trao gửi thông điệp cho chúng ta.

Tôi đã hết thời gian chất vấn, đặt câu hỏi và thao thức… Tôi giờ đây chỉ còn thời gian tự tìm ra câu trả lời. Đáp án bằng sự cảm nghiệm của bản thân là đáp án đúng đắn nhất, vì chính mình phải trả giá cho nó. Tha nhân chỉ cho ta lời khuyên và nhận định, nhưng kẻ quyết định sau cùng là chính ta. Dù đúng dù sai thì can đảm đón nhận kết quả là sự trưởng thành nhân cách.

50 tuổi đời, tôi mới tạm gọi là lớn đủ. Tôi lớn đủ để mà đối diện với mọi trạng huống của cuộc đời và tôi biết rằng Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối của đời tôi.

Lạy Chúa, có người sợ trò chuyện với con không phải vì con khôn ngoan, nhưng có lẽ là vì con quá trải nghiệm mọi cung bậc cuộc sống. Trong ánh mắt con, mọi việc chuyển động theo hướng mà con cảm nghiệm bằng trái tim. Trái tim thì có lý lẽ mà chả lý trí nào có thể giải thích được. Cho dù có đi một mình, con vẫn cứ đi; cho dù có chiến đấu một mình, con cũng vẫn cứ chiến đấu, chỉ khi thấy bản thân bình an là đủ. Thiên Chúa là bình an, là hạnh phúc của con. Con yêu Ngài nhất, con yêu Ngài trong cảm nghiệm chứ không phải bằng lời nói sáo rỗng. Chỉ những người nông cạn mới cho rằng lời nói yêu mến Thiên Chúa là giả dối. Chả ai có thể nói yêu Thiên Chúa bằng môi miệng được. Nếu Đấng họ không thấy mà có thể nói yêu là giả dối, thì những kẻ họ thấy được nói yêu lại càng giả tạo hơn. Vì chỉ những người có cảm nghiệm thực sự với Thiên Chúa mới có thể nói yêu Ngài. Và hiển nhiên kẻ nói yêu Ngài không cứ phải là người hoàn hảo. Kẻ yêu Thiên Chúa trong chính tội lỗi, yếu đuối của mình mới thực sự là người trưởng thành. Bởi phủ nhận sự bất toàn của bản thân chính là kẻ kiêu ngạo, dối trá. Cảm ơn Ngài đã yêu con, cảm ơn Ngài đã ban cho con nhiều ân huệ, đã nhận lời con cầu xin. Cảm ơn Ngài đã thấu hiểu nỗi thống khổ, nỗi khó khăn, giới hạn và mọi vui buồn, hạnh phúc của con, tha thứ cho con, đợi chờ con, cảm thông với con và chả bao giờ từ khước, ghi dấu chấm hết với con. Mọi sự của Ngài con không quan tâm, con chỉ quan tâm một Thiên Chúa gần gũi với con như hơi thở và như vậy là đủ. Có Thiên Chúa là đủ. Chỉ cần có Thiên Chúa là đủ. Hơn bao giờ hết, chỉ cần có Thiên Chúa là đủ... phải không?!

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

NĂM THÁNH - ẤT TỴ 2025 

Theo Âm lịch, năm 2025 là năm Ất Tỵ. Tỵ là con rắn – chiếm giữ vị trí thứ sáu, nằm giữa Thìn và Ngọ. Đây là loài vật có thân hình mềm mại, tượng trưng cho sự linh hoạt, thông minh và khôn ngoan. Trong hệ thống can chi của người Việt, sự kết hợp giữa can “Ất” thuộc hành Mộc, tượng trưng cho sự sinh sôi, phát triển và địa chi “Tỵ” thuộc hành Hỏa, đại diện cho sự nhiệt tình, năng động tạo nên một năm đầy năng lượng và biến động. Như vậy, con rắn trong năm nay biểu tượng cho những điều tốt đẹp.

Trong văn hóa Việt Nam, hình tượng rắn đại diện cho sự biến đổi và tái sinh. Người xưa lầm tưởng con rắn là loài bất tử nên mới có câu “rắn già rắn lột”. Cả Đông lẫn Tây phương đều truyền nhau những câu truyện cổ tích về sự bất tử của con rắn. Giống như rắn lột xác để tái sinh, con người cũng cần phải không ngừng đổi mới, vượt qua giới hạn của bản thân để trở nên tốt đẹp hơn. Do đó, chúng còn được xem là biểu tượng của sự sống lâu, sức khỏe dồi dào và may mắn.

Nhưng cũng theo quan niệm dân gian của người Việt, rắn là con vật hiểm ác, tinh quái và có phần giảo quyệt. Cứ nhắc tới rắn, bao giờ người ta cũng kèm theo những điều xấu; ví dụ như “miệng hùm nọc rắn”, “khẩu Phật tâm xà”.... Rắn được coi là biểu tượng của sự độc ác, ám chỉ những người ranh mãnh, lọc lừa, gian dối, quỷ quyệt, không nên tiếp cận mà phải tránh xa. Người ta thường dùng thành ngữ “cõng rắn cắn gà nhà” để chỉ những kẻ đưa kẻ thù về làm hại gia đình hoặc tổ quốc mình – tương tự như câu “rước voi về giày mả tổ”.

Trong Kinh Thánh, cả Cựu ước và Tân ước đều nhiều lần nói đến loài rắn. Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt - xấu. Rắn được dùng như là biểu tượng của sự khôn ngoan: “Hãy khôn ngoan như con rắn!” (Mt 10,16), hay rắn đồng cứu người (x. Ds 21, 4-9). Rắn còn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ cám dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15).

Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đã làm ra (St 3,1). Chính con rắn đặt vấn đề với bà Eva ăn trái cấm rồi đưa cho cả chồng đang ở đó cùng ăn để rồi cả hai ông bà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, “nơi có những cảnh vườn đầy hoa hồng đỏ thắm không bao giờ tàn héo. Nơi có những lùm cây trổ bông mang màu sắc của mùa Xuân tươi thắm …” (Regula Magistri - Règle du maitre 10, 94-101).

Kể từ đó, con người luôn đau đáu nhớ về một mùa Xuân vĩnh cửu đã mất với sự ăn năn, sám hối, để hy vọng được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi và ban ân sủng. Trong Năm Thánh đầu tiên vào năm 1300, Đức Giáo hoàng Bonifacio VIII đã cho phép các tín hữu hành hương từ khắp nơi đến Roma, bước qua Cửa Thánh của các Đền thờ để nhận được ơn toàn xá, nghĩa là được tha tội và nhận ân sủng Chúa.

Năm Thánh 2025 với chủ đề “Những Người Hành Hương Của Hy Vọng” sẽ là Năm Thánh thường lệ thứ 27 trong lịch sử Giáo hội. Năm Thánh 2025 là dịp để chúng ta cùng nhau hướng về Thiên Chúa, cầu nguyện cho sự bình an và hy vọng. Đây cũng là thời điểm để chúng ta cùng nhau thực hiện những hành trình thiêng liêng, khám phá những giá trị đích thực của đức tin và cuộc sống.

Ý nghĩa sâu xa nhất của Năm Thánh luôn luôn là kinh nghiệm về sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa, và điều này sẽ càng trở nên quan trọng hơn khi đứng trước việc loan báo niềm hy vọng. Trong Năm Thánh, chúng ta không chỉ có niềm hy vọng nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa mà còn tiến đến niềm hy vọng là gia nghiệp Nước Trời. Niềm hy vọng trở thành một điều chắc chắn, một kinh nghiệm cụ thể mà qua đó mỗi người chúng ta có thể chạm tới lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa.

Nghi thức khai mạc Năm Thánh thường đi liền với việc mở Cửa Thánh. Tại Rôma, có bốn Cửa Thánh, được đặt tại các Đền Thánh chính ở Rôma: Đền thờ thánh Phêrô, Đền thờ thánh Gioan Latêranô, Đền thờ thánh Phaolô ngoại thành, và Đền thờ Đức Bà Cả. Ngoài Năm Thánh, những cửa này được xây bít kín lại cách kiên cố. Ngày 24-12-2024 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã long trọng mở Cửa Thánh tại Đền Thờ Thánh Phêrô, khai mạc Năm Thánh 2025. Tại Tổng giáo phận (TGP) Sài Gòn, Đức Tổng giám mục Giuse Nguyễn Năng cũng đã mở Cửa Thánh tại nhà thờ Chính Toà Đức Bà Sài Gòn và cử hành thánh lễ trọng thể khai mạc Năm Thánh vào lúc 8g30 ngày Chúa nhật lễ Thánh Gia 29-12-2024.

Khi mở Cửa Thánh, Giáo Hội muốn con cái mình, những người đang sống “trong nhà” hãy nhìn lại mình và cố gắng sống tốt hơn, và hãy dang rộng vòng tay đến đón tiếp những người còn “ở xa”, tức là họ còn sống trong lầm lạc, đạo đức khô khan, hay chưa hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội. Thay vì kết án hoặc xa lánh, người Kitô hữu cần đối thoại, gặp gỡ, và mở cho họ lối về với đường ngay nẻo chính.

Năm Thánh là thời gian cầu nguyện. Nếu thiếu cầu nguyện, sẽ không biết hy vọng. Người giàu có thì tự mãn trong cuộc sống mà họ tưởng là ổn định bảo đảm, nên không cảm nhận được niềm hy vọng Kitô giáo. Còn người nghèo và đau khổ lại dễ rơi vào thất vọng trong nỗi cùng cực đau thương. Cầu nguyện sẽ giúp nâng tâm hồn lên tới Chúa và cho chúng ta có khả năng nhìn xuyên qua tăm tối của thế giới này để thấy tương lai phục sinh. (Thư Mục vụ Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh 2024 của Đức TGM Giuse Nguyễn Năng)

Hành hương là nền tảng cốt lõi của Năm Thánh, việc hành hương giúp chúng ta tái khám phá giá trị của sự thăng tiến, dấn thân, hy sinh và xây dựng tình bác ái. Hoặc nói như Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Việc hành hương trong Năm Thánh là một dấu chỉ đặc biệt, vì mang hình ảnh của cuộc hành trình mỗi người chúng ta đang thực hiện trong cuộc sống. Cuộc đời là một chuyến hành hương, và con người là khách lữ hành, là người hành hương đang tiến bước trên đường đi về đích điểm ước mong. Lòng thương xót chính là đích điểm phải đạt tới, đòi hỏi phải dấn thân và hy sinh. Ước gì cuộc hành hương sẽ thúc đẩy sự hoán cải: khi bước qua Cửa Thánh, chúng ta để cho lòng thương xót của Thiên Chúa phủ kín chúng ta, và nỗ lực thực thi lòng thương xót đối với tha nhân như Chúa Cha đã thương xót chúng ta.”

Khi thực hiện các cuộc hành hương đến các nơi thánh của Giáo Hội tại Rôma, tại Thánh địa, tại các nhà thờ hoặc những nơi linh thánh do Đức Giám Mục địa phương chỉ định trong Giáo phận của mình và thực hiện những việc đạo đức, các tín hữu có thể được hưởng ơn toàn xá. Ơn toàn xá là ân sủng đặc biệt trong Năm Thánh, các tín hữu được mời gọi thực tâm sám hối, từ bỏ đam mê tội lỗi, lãnh nhận bí tích Hòa giải và Thánh Thể, hiệp thông cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.

Trong TGP Sài Gòn, những nơi hành hương để lãnh ơn toàn xá là các nhà thờ có ý nghĩa lịch sử hoặc thuận tiện cho các cộng đoàn gồm nhà thờ Chính Toà, nhà thờ Thanh Đa, nhà thờ Phanxicô Xaviê Chợ Lớn, nhà thờ Fatima Bình Triệu, nhà thờ Chợ Quán, nhà thờ An Nhơn, nhà thờ Tân Qui, nhà thờ Tân Phú, nhà thờ Thánh Gẫm, nhà thờ Chí Hoà.

Cùng với việc cầu nguyện và hành hương để lãnh ơn toàn xá, chúng ta cùng thực thi các việc của lòng thương xót và sám hối. Có rất nhiều việc dễ thực hiện trong ngày sống, qua đó cũng được ơn toàn xá, như tham dự các khoá tĩnh tâm, học hỏi về Công đồng Vaticanô II; hy sinh hãm mình, thực hành “Thương người có 14 mối”, giúp đỡ những người nghèo khổ, già yếu, bị bỏ rơi, di cư; hoặc hoạt động để bảo vệ sự sống; tránh phân tâm vô ích vì mạng xã hội…

Thực thi các việc của lòng thương xót như thế cũng chính là thi hành sứ vụ “Cùng nhau loan báo Tin Mừng” như Hội đồng Giám mục Việt Nam mời gọi trong Thư Mục vụ năm 2024. Chúng ta là Hội Thánh và đồng trách nhiệm về Hội Thánh, là chi thể trong Nhiệm thể Hội Thánh, vì thế ta hãy tích cực thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, tuỳ theo chỗ đứng và hoàn cảnh của mình trong Hội Thánh, với ân sủng và khả năng Chúa ban riêng cho từng người. (Thư Mục vụ Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh 2024 đã dẫn)

Mùa Xuân lại đến, trăm hoa đua nở. Đất trời như được choàng lên một tấm áo mới với muôn màu sắc. Nếu những tháng ngày mùa Đông lạnh lẽo, ảm đạm khiến cây cối trở nên khô cằn, khẳng khiu, và mất đi sức sống thì mùa Xuân đến mang lại không khí ấm áp, ôn hòa tạo ra vẻ đẹp nên thơ và đầy sức sống cho muôn loài muôn vật. Cảnh vật mùa Xuân như bức tranh vẽ lại mùa Xuân đầu tiên tại vườn địa đàng khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất và muôn loài thụ tạo tươi đẹp đến nỗi chính Người đã phải thốt lên: mọi sự quả là rất tốt đẹp! (St 1, 31).

Năm Ất Tỵ 2025 là năm của tin yêu và hy vọng. Sự chan hoà, ấm áp của mùa Xuân khiến lòng người trào dâng bao khát vọng, bao yêu thương và mong muốn một cuộc sống tươi mới, hạnh phúc hơn. Mùa Xuân là dịp để chúng ta trao cho nhau những lời chúc tốt đẹp và hứa hẹn một năm mới nhiều niềm vui, hạnh phúc và bình an. Xin chúc cho mọi người “khôn ngoan như con rắn” để đón nhận được ơn tha thứ và ân sủng từ Lòng Chúa Thương Xót trong cuộc lữ hành đầy hy vọng.

 

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

ĐÓA MỒNG TƠI 

Nếu như ai đó một lần trong đời trải nghiệm tình huống khó khăn, cấp bách như gia đình chủ tiệc cưới hôm nay có lẽ sẽ rất hạnh phúc khi được Đức Mẹ và Chúa Giêsu can thiệp cứu nguy cho mình. Mẹ Maria đã tinh tế nhận ra tình huống khó khăn của gia chủ và Mẹ đã lên tiếng cầu xin Con Mẹ: “Họ hết rượu rồi.” (Ga 2, 3)

Nếu như ai đó đang ở trong tình trạng nan giải, khi nhận được sự can thiệp âm thầm này của Mẹ, chắc chắn sẽ rất xúc động. Mẹ âm thầm gợi ý với Con của Mẹ mà không cần một lời cầu xin của gia chủ. Quả thực Mẹ vừa là một người phụ nữ cao thượng, tốt bụng, nhân hậu mà còn rất tinh tế. Nếu không vì tình yêu thương vĩ đại, nếu như Mẹ không có trái tim nhân hậu và sự tinh tế của một người mẹ thì có lẽ phép lạ tiệc cưới Cana hôm nay không xảy ra.

Đã vậy, khi Mẹ ngỏ lời với Con của Mẹ thì Người lại trả lời cách khô khan nhất: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và đến tôi? Giờ của tôi chưa đến.” (Ga 2, 4) Nhận được câu trả lời từ khước này nhưng Mẹ lại hiểu được ý muốn của Con Mẹ: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo.” (Ga 2, 5)

Thật sự, không ai hiểu con bằng mẹ, cũng chả ai hiểu mẹ bằng con. Mối liên hệ giữa mẹ và con là mối liên hệ mẫu tử thiêng liêng nhất. Mẹ đã hiểu được ý định của Con Mẹ trong tiệc cưới hôm nay và Con của Mẹ cũng hiểu được tấm lòng của Mẹ.

Nếu như là tôi, người gặp hoàn cảnh cấp bách như tình huống của gia chủ hôm nay, tôi sẽ thật sự xúc động. Không, đúng hơn tôi sẽ rất xúc động vì được quan tâm, vì được giúp đỡ, vì được thấu hiểu. Trên đời này không có gì quan trọng hơn sự quan tâm. Trên đời này không có gì quí giá hơn sự giúp đỡ. Trên đời này không có gì quí báu hơn sự thấu hiểu. Một sự thấu hiểu, quan tâm và giúp đỡ nhưng không, vô vị lợi. Không cần phải đợi nhờ vả, không cần phải đợi cầu xin, Mẹ biết phải làm gì cho con cái Mẹ. Quả thực, trên đời này chưa có người Mẹ nào vĩ đại như vậy. Nhưng trớ trêu thay, chúng ta lại hay thường lãng quên Mẹ nhất.

Từ thuở nhỏ, tôi đã được chỉ dạy cách cầu nguyện với Mẹ. Tôi cũng không nhớ trong gia đình ai là người đã dạy tôi lời kinh ấy nhưng nó đã thấm sâu vào kí ức tôi: “Lạy Mẹ Maria lạy Mẹ khoan thay, con xin dâng mình con cho Đức Mẹ và cho được làm chứng con hết lòng làm con Đức Mẹ thì ngày hôm nay con xin dâng con mắt, lỗ tai, miệng lưỡi, trái tim cùng trót cả và mình con cho Đức Mẹ. Lạy Đức Bà Maria lạy Mẹ nhân thay, này con thuộc về Đức Mẹ thì xin Đức Mẹ gìn giữ con như của riêng Đức Mẹ vậy Amen.”

Vâng lời kinh ấy ngày ngày vang vọng trong trái tim tôi mỗi khi thức dậy và chiều tối khi đi ngủ. Tôi yêu Mẹ từ nhỏ, có lẽ vì tôi thiếu tình thương của mẹ vì hoàn cảnh cuộc sống khó khăn ngay sau ngày giải phóng. Mẹ tôi phải làm lụng vất vả để tôi ở nhà cho hai anh trai song sinh mới lên 5 chăm sóc. Tôi phải một mình cô đơn đối diện với cuộc sống ngay từ tấm bé, đói khát sữa mẹ và vòng tay ôm ấp, nên tôi rất yêu Mẹ. Tôi lại còn được nhận Mẹ làm bổn mạng. Có lẽ vậy, Mẹ đã âm thầm bảo vệ, nâng đỡ, che chở trong suốt hành trình làm người.

Hôm nay đây, khi cầm bút viết suy niệm về Mẹ trong tiệc cưới Cana, tôi lại càng nhận ra sự bảo vệ thương yêu âm thầm vô vị lợi của Mẹ trong suốt cuộc đời. Cho dù là khi gặp những hoàn cảnh khó khăn đau khổ nhất không được hóa giải như mong muốn nhưng tôi cũng thực sự xúc động vì nhận ra sự quan tâm âm thầm vô vị lợi cũng như sự can thiệp vĩ đại của Mẹ trong cuộc đời. Có lẽ bấy lâu nay, tôi không hề biết rằng, tôi đã nhận được không biết bao nhiêu lần sự can thiệp của Mẹ trong đời, để mà Con Mẹ đã làm những phép lạ vĩ đại cho tôi.

Có một loài hoa mồng tơi, nhỏ bé và dịu dàng. Màu hoa trắng điểm tím đỏ nhạt trông rất sáng trong. Quả mồng tơi nhỏ mọng, hình cầu hay trứng, màu xanh khi chín chuyển sang tím đen hoặc trắng. Tấm bé, tôi thường hái quả mồng tơi ba trồng trên dậu sau nhà. Tôi đùa nghịch với chúng, bóp nát trong bàn tay để cảm nhận được sự tan vỡ dịu ngọt của nó hoặc để pha thành màu mực tím nhớ nhung. Đột nhiên, tôi muốn thời gian quay trở lại, bỏ hết mọi cay đắng đã trải qua, chỉ muốn trở thành một trẻ thơ hạnh phúc…

Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi và nông cạn, hẹp hòi. Con cảm ơn Ngài đã ban cho con một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Mẹ vừa là Mẹ, vừa là mẫu mực của một người phụ nữ để con bắt chước. Con xin lỗi vì bấy lâu nay vô tình lãng quên sự hiện diện âm thầm của Mẹ trong đời. Xin giúp con học nơi trái tim của Mẹ: sự dịu dàng hy sinh, sự quan tâm âm thầm vô vị lợi, sự khoan dung nhân từ, sự tha thứ vĩ đại… của một đóa mồng tơi mà chả cần ai nhớ ai quên.

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Chia Sẻ Cảm Nghiệm -

THIÊN CHÚA VÀ DÒNG SÔNG 

Tin mừng hôm nay cho ta thấy sự khiêm nhường sâu thẳm của ngôn sứ Gioan: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa.” (Lc 3, 16)

Thật vậy, không phải người kém cỏi là người khiêm nhường nhưng ai càng giỏi, càng khôn ngoan, càng nhân đức thì người đó càng khiêm nhường. Đơn giản là vì họ biết rất rõ họ là ai. Họ biết rất rõ họ thế nào và Thiên Chúa là ai trong cuộc đời họ. Chúng ta là ai cơ chứ, nếu không phải là tạo vật của Thiên Chúa với những hạn hẹp, bất toàn của bản thân. Không một người nhân đức, tài giỏi nào mà lại không khiêm nhường, đơn giản vì họ biết tất cả những gì họ có đều là ân huệ Thiên Chúa ban. Chỉ những kẻ xem thường sự hiện diện của Thiên Chúa mới tự cho mình có tài năng mà không cần sự ban ơn trợ giúp của Ngài.

Người khiêm nhường là người trải qua nhiều cung bậc cảm xúc từ cuộc sống, hay nói khác hơn là người trải nghiệm nhiều về hạnh phúc, niềm vui và đau khổ. Từ đó họ rút ra được bài học cho bản thân, nhìn nhận được giá trị thật của mình và giá trị thật của Thiên Chúa. Khi biết sự mỏng manh, yếu đuối bất toàn của con người, bạn mới hiểu rằng mình thật ra chỉ là bụi đất…

Kẻ nào càng vênh váo, tự đắc, kẻ ấy càng coi thường Thiên Chúa và tha nhân. Người khiêm nhường sâu thẳm học được cách nhìn nhận sự thật về mình và chân nhận giá trị thật của Thiên Chúa từ đó họ học cách đối xử khiêm nhường với tha nhân.

Hôm nay Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về sự khiêm nhường, Ngài là Đấng vô tội nhưng cũng xếp hàng làm tội nhân để được chịu phép rửa. Tại sao vậy? Tại sao Ngài lại hành động như vậy nếu không phải vì yêu thương con người. Ngài đã đồng hành với chúng ta trong hành trình làm người dương thế, để chúng ta thấy mình được đồng cảm, được thấu hiểu, được nâng đỡ và thương yêu. Hơn hết là được cứu độ.

Tôi thích hành động hôm nay của Ngài. Tôi thích bước chân lặng lẽ của Ngài xuống dòng sông Giođan chịu phép rửa từ tay Gioan. Tôi là người thích lặng lẽ nên tôi yêu những hành động lặng lẽ của Ngài. Và tôi khám phá ra sự yêu thương và hy sinh vô hạn mà Ngài đã dành cho tôi và cứu độ tôi.

Xưa kia tôi có rất nhiều tham vọng cũng như khát vọng nhưng ngày nay tôi chỉ còn có một tham vọng và khát vọng duy nhất là yêu kính Thiên Chúa. Tôi ao ước mình có thể yêu Ngài nhiều hơn, sống đẹp lòng Ngài nhiều hơn. Ngoài Thiên Chúa ra, đối với tôi bây giờ chả còn gì là quan trọng nữa. Sự thành công cũng không khiến tôi quá hạnh phúc, sự đau khổ cũng không khiến tôi quá thất vọng. Tôi đã bình tĩnh đủ và trưởng thành đủ để đối diện với cuộc sống đầy bất trắc này. Điều tôi khao khát và thao thức chỉ là làm sao trở thành một người xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương.

Chúa Cha đã phán: “Hãy vâng nghe Lời Người.” (Lc 9, 35) Đó chính là lệnh truyền khiến ta bình an và hạnh phúc. Không có gì hạnh phúc và bình an khi ở trong tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa. Thôi thì hãy bỏ qua tất cả mọi thử thách và đau khổ, hãy chọn lấy sự vâng phục Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cuộc sống cho Ngài. Vâng, Thiên Chúa, Ngài biết cần phải làm gì cho ta.

Lạy Chúa, con chỉ là một tội nhân không hơn không kém. Từ lòng mẹ, con đã là một tội nhân nhưng nhờ ân huệ Ngài thanh tẩy con trở nên hoàn hảo hơn mỗi ngày. Không bao giờ con có thể xứng đáng với tình yêu Ngài ban tặng vì mãi mãi con cũng chỉ là một tội nhân không hơn không kém. Một tội đồ đã mình trót đem lòng yêu thương Thiên Chúa với sự bất toàn của mình. Xin giúp con biết sống khiêm nhường và vâng phục. Như dòng sông lững lờ trôi mỗi ngày trong giọt nước mắt của chính mình mà tẩy rửa mọi vết nhơ. Nhưng mà không sao, chỉ cần kiên vững bước đi bởi trong lòng sông ấy có Con Một Thiên Chúa đang đứng chờ con. Thiên Chúa và dòng sông, Ngài một bên và con một bên…

 

M. Hoàng Thị Thùy Trang

 

Songs of Comfort

8 Catholic Church Songs

Kinh Lạy Cha (tiếng Anh)

Kinh Kính Mừng (tiếng Anh)

Kinh Tin Kính (tiếng Anh)

ANRÊ DŨNG LẠC-Điện thoại (402) 423-2005 &(402) 937-5699

9210 1St Lincoln, NE 68526

ANRÊ DŨNG LẠC
9210 1St

Lincoln, NE 68526

Điện thoại (402) 423-2005 &(402) 937-5699
Email: joseph@andrewdunglac.org
Chúng tôi:

"Sống và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống".